Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013

NHỮNG TRANG CÓ TỪ NĂM 2011 TRÊN ĐỊA CHỈ vn2dn CHỈ TRUY CẬP XEM NHƯNG KHÔNG THỂ ĐƯA BÀI MỚI LÊN ĐƯỢC

 

CÁC BẠN NHẤN CHUỘT VÀO LINK Ở DƯỚI ĐỂ XEM

BÀI ĐĂNG TRƯỚC

Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2013

CÁI NÔI CỦA ĐẠO THỜ CHÚA

 

CÁI NÔI CỦA ĐẠO THỜ CHÚA

CÁI NÔI CỦA CÁC ĐẠO CHÚA: VÙNG LƯỠI LIỀM PHÌ NHIÊU Ở CẬN ĐÔNG

(The Fertile Cressent of The Near East)

Theo kết quả của những công trình khảo cổ từ đầu thế kỷ 19 đến nay, cái nôi của nền văn minh Tây Phương đã được xác nhận là vùng đồng bằng rộng lớn ở miền Cận Đông. Đất đai của vùng này rất phì nhiêu vì nó đã được tạo nên bởi đất bồi từ những con sông dài gồm có sông Nil (Ai Cập) sông Jordan (Palestine) sông Syria và nhất là hai dòng sông Euphrate và Tigris đều xuất phát từ Tiểu Á để cùng đổ vào vịnh Ba Tư. Nếu ta tô màu các miền đồng bằng phì nhiêu này trên bản đồ, ta sẽ thấy hiện lên một hình vòng cung trông giống như một cái lưỡi liềm chạy dài từ Ai Cập qua Palestine, Jerusalem, Babylon (tức Iraq và Koweit ngày nay) đến vịnh Ba tư. Các nhà khảo cổ gọi vùng ngày là Vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu Cận Đông (The Fertile Cressent of the Near-East).

Để truy tìm các di vật của nền văn minh tại vùng này, rất nhiều cuộc đào xới qui mô của các nhà khoa học ngành khảo cổ thuộc nhiều quốc tịch đã được thực hiện trong hai thế kỷ qua. Tuy nhiên, phải đợi đến cuối thế kỷ 19, do những sự tình cờ, các nhà khảo cổ đã may mắn phát giác ra những tấm đất sét phơi khô (sun-baked clay tablets) có ghi những dấu hiệu kỳ lạ.

Cho tới nay, người ta đã thu lượm được hàng chục ngàn tấm đất sét phơi khô. Đa số các tấm đất sét này có cỡ trung bình khoảng 10cm x 20cm, một số ít có hình lăng trụ (prism) hoặc hình trục lăn (cyclinder). Sau nhiều chục năm nghiên cứu kiên nhẫn, các nhà khảo cổ trên khắp thế giới, nhất là tại các phân khoa khảo cổ thuộc các trường Đại Học Mỹ, Pháp, Anh, Thổ Nhĩ Kỳ. . . đã phát giác ra những tấm đất sét khô đó chính là những "cuốn sách" của dân tộc Sumerians, giống người đầu tiên định cư tại Babylon. Người Hy Lạp gọi Babylon là Mesopotamia, tức Lưỡng Hà Châu (Meso: In The Middle, Potamia: Rivers). Các nhà khảo cổ đã lập ra một môn học chuyên nghiên cứu về ngôn ngữ của dân tộc này gọi là Sumerology. Những nỗ lực của các nhà khoa học khảo cổ đã đưa đến kết quả là hầu hết những "cuốn sách" của dân tộc Sumer đã được dịch ra nhiều thứ tiếng.

Thoạt đầu, người Sumerians phát minh ra loại chữ tượng hình (pictographic characters) nhưng chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, loại chữ này được thay thế bằng hệ thống chữ viết ghi âm (phonetic system of writing) gồm có 18 dấu hiệu tượng trưng cho 18 âm căn bản. Các dấu hiệu này phần lớn đều có hình tam giác, góc nhọn, hình thoi nhọn đầu... trông giống như những cái nêm cối. Do đó các nhà khảo cổ gọi nó là Cuneiform, do căn ngữ La tinh "Cunei" có nghĩa là cái nêm (wedge).

Tới giữa thế kỷ 20, nhiều bộ tự điển và sách dạy văn phạm về loại chữ này đã được xuất bản khiến cho công cuộc dịch thuật cả một kho tàng vĩ đại những sách cổ của dân tộc Sumer trở nên dễ dàng hơn. Nhờ đó, cánh cửa bí mật của lịch sử văn minh Tây phương đã được mở rộng. Loại chữ viết đầu tiên của dân tộc Sumer được phỏng định đã xuất hiện vào năm 3150 TCN. Đây là cái mốc quan trọng đánh dấu lịch sử nhân loại. Tất cả những gì xảy ra trước năm 3150 TCN đều được coi là Thời Tiền Sử (prehistoric).

Dò tìm các đấu tích do con người để lại trên các vách đá, trong các hang động và khảo nghiệm các vật dụng do con người chế tạo bằng đá, bằng đồng, gỗ, đất nung... Các nhà khảo cổ đã dần dần tìm hiểu được lịch sử tiến hóa của loài người trong moị sinh hoạt của đời sống cá nhân và tập thể cho tới giới hạn thời gian 25 ngàn năm.

Để có một ý niệm khái quát về thời tiền sử này, thiết tưởng cũng nên đề cập qua về những cái mốc thời gian quan trọng (viết theo tài liệu Archaeology in The Land of The Bible của Avraham Negev - Shoken Books N.Y.1977) :

- Thời Đồ Đá Cổ Đại (Old Stone Age) từ 25.000 -10.000 Trước Công Nguyên (TCN) , con người chỉ biết săn bắt, hái lượm và sống trong hang động.

- Thời Đồ Đá Trung Đại (Middle Stone Age) 10.000-7500 TCN, con người biết trồng cấy, thuần hóa thú vật, chế tạo gạch và đồ gốm. Một số thành phố nhỏ xuất hiện với thành quách vây quanh. Đáng chú ý là thành phố Jericho được xây cất tại đồng bằng sông Jordan ở phía bắc Biển Chết (The Dead Sea) vào khoảng 8000 năm TCN. Cho tới nay, người ta tin rằng đây là thành phố đầu tiên trong lịch sử nhân loại đánh dấu sự chuyển hướng của con người từ cuộc sống lang thang du cư đến cuộc sống định cư.

- Thời Đồ Đá Cận Đại (New Stone Age) 7500-4000 TCN. Nhiều làng mạc và thành phố xuất hiện, ngừời ta biết trồng trọt nhiều loại hoa màu và cây ăn trái, nuôi nhiều loại gia sức. Tục lệ thờ cúng xuất hiện.

- Thời Đồ Đồng (Chacolitic) 4000-3150 TCN. Đồng (copper) nguyên chất được xử dụng để chế tạo dụng cụ. Con người biết xây dựng nhà nhiều tầng và biết làm hầm (basement) để trú ngụ.

- Thời Đồng Thau (Bronze Age) 3150-1200 TCN. Người ta biết pha thiếc vào đồng nguyên chất để chế tạo hợp kim cứng hơn. Đồng thời chữ viết được phát minh tại Sumer chấm dứt thời tiền sử. Chữ viết của người Do Thái (Hebrew), mãi tới hơn 1000 năm sau mới xuất hiện. Cũng trong Thời Đồng Thau, những con đường giao thông qua biển Địa Trung Hải và trên bộ đã nối liền các thành phố trong vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu với nhau. Nền văn minh của Sumer (tức Babylon) đã lan rộng tới toàn vùng, nhất là tại Ai Cập và Do Thái. Điều đáng chú ý là cách đây 3400 năm (1400 TCN), ngôn ngữ của dân tộc Sumer đã trở thành một ngôn ngữ quốc tế cho vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu này. Các nhà khảo cổ đã tình cờ tìm thấy nhiều tấm đất sét ghi chữ hình nêm (cuneiform) của Babylon tại Tell Amarina trên bờ sông Nil (Ai Cập). Sau khi nghiên cứu mới biết đó là những văn kiện ngoại giao giữa vua thuộc dòng Kassite của Babylon và Pharaoh Tutankhamen của Ai Cập.

Các tài liệu này cũng đề cập tới những tranh chấp khiếu nại về các vấn đề buôn bán, triều cống, việc hôn nhân giữa hoàng gia hai nước với nhau. Đặc biệt là các tấm đất sét này còn in dấu ấn (seal) được khắc theo hình vẽ do những trục lăn tạo ra để thay cho chữ ký.

Tất cả các khám phá này cho thấy Babylon là nguồn gốc văn hóa rất quan trọng đối với Do Thái. Các Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái hầu như đã chép lại hoặc mô phỏng từ các huyền thoại hay từ các tôn giáo của Babylon. Sở dĩ sau này ít ai biết nguồn gốc đầu tiên của Kinh Thánh là Babylon vì vào thế kỷ 4 TCN, Babylon đã bị hoàn toàn phá hủy bởi một cơn lụt lớn do sự đổi dòng đột ngột của sông Euphrate. Babylon đã bị chôn vùi dưới lớp cát sa mạc từ 24 thế kỷ qua nên thế giới không còn ai biết tới dân tộc Sumer là tác giả của các huyền thoại đó.

Sơ lược lịch sử của dân tộc Sumer và địa danh Babylon.

Theo sự tường thuật của nhà bác học H. Mellersh, tác giả nhiều cuốn sách giá trị đặc sắc về lịch sử và khảo cổ, trong đó có Archaeological Section của bộ Great Encyclopedic Dictionary và cuốn Sumer and Babylon (NY Crowell 1965), xin tóm lược như sau:

Babylon là một thành phố cổ mà trước đó nhiều thế kỷ nó được gọi là Sumer. Babylon nằm trên vùng châu thổ tả ngạn sông Euphrate và ở vị trí gần nhất với sông Tigris, ngang vĩ tuyến 30. Hàng chục ngàn năm về trước, giống người khôn ngoan như chúng ta hiện nay (homo sapiens) đã biết chăn nuôi và trồng trọt. Khoảng 6000 năm TCN, những người "homo sapiens" từ các vùng đồi núi tràn xuống vùng châu thổ phì nhiêu định cư. Cuộc sống định cư là nguồn gốc phát sinh nền văn minh. Danh từ Civilization do căn ngữ Latin "Civis" có nghĩa là dân cư (citizen). Cuộc sống định cư muốn được ổn định phải có tổ chức và sự kiểm soát nên đã nảy sinh ra chính quyền (government) và chấm dứt thời kỳ bộ lạc.

Luật pháp và tục lệ phát triển. Hai loại người chiếm ưu thế trong xã hội này là vua quan và tu sĩ. Hàng loạt đô thị mọc lên trên miền châu thổ của hai con sông Euphrate và Tigris là Larsa, Lagash, Erech Isin, Ur và Eridu. Thành phố Ur và Eridu nằm về phía Nam của Babylon và gần giáp biên giới Kuwati ngày nay. Ur nổi tiếng trong thế giới Kitô Giáo, thậm chí Giáo Hoàng Jean Paul II cũng dự tính đi thăm thành phố này trong năm 2000.

Sách Sáng Thế Ký (Genesis) là cuốn sách đầu tiên của bộ Thánh Kinh Cựu Ước đã nói tới thành phố Ur như sau : "Thành phố Ur là nơi sinh trưởng của Terah. Terah dẫn con trai là Abraham và con dâu (vợ Abraham) là Sarah đi từ UR đến miền đất Canaan để lập quốc Do Thái". Sau này các nhà học giả nghiên cứu các huyền thoại của dân Sumer đã phát giác ra là Thánh Kinh Cựu Ước đã chép lại gần nguyên văn câu chuyện thần thoại ở Babylon. Chuyện kể rằng : Vị Thần Đất ở thành phố Ur là Thần Terah sinh ra nam thần Abarama và nữ thần Sarai . Sau lớn lên thần Abarama đã lấy em gái mình làm vợ... giống như Kinh Thánh Cựu Ước như đã trích ở trên.

Vì lý do những chuyện thần thoại của Babylon đã được truyền bá từ xa xưa trong khắp vùng Cận đông và vùng Địa Trung Hải nên tiếng La tinh từ xưa đã du nhập tên vị thần Đất "TERAH" của Babylon làm nguyên ngữ của chữ "TERRA" nghĩa là Đất. Sau đó đến lượt Pháp ngữ mượn tiếng Terra của Latinh làm căn ngữ cho chữ "LA TERRE" cũng nghĩa là Đất. Chữ "Ur" theo tiếng Sumer có nghĩa là Ánh Sáng (Light) cũng tương tự như người Pháp gọi Paris là "Kinh Thành Ánh Sáng" vậy. Khám phá này cho thấy Abraham đã từng được coi là tổ phụ của các dân tộc Do Thái và Ả Rập, đồng thời cũng là ông tổ của các đạo thờ Chúa (trong đó có Công Giáo Việt Nam) không phải là nhân vật có thật mà chỉ là nhân vật thần thoại của Babylon.

Người Babylon biết nung gạch và chế ra hồ để xây nhiều ngôi đền theo hình tháp có đáy hình tròn rất lớn. Họ xây những đường đi bậc thang chung quanh tháp theo hình xoắn ốc. Trên đỉnh tháp là một ngôi đền nhỏ. Loại đền thờ hình tháp này gọi là Ziggurat. Có nhiều tháp rất cao, tới cả 100 mét. Đây là nguồn cảm hứng cho người Do Thái viết chuyện tháp Babel trong Kinh Thánh Cựu Ước. Người Babylon tưởng tượng cứ xây tháp thật cao sẽ có lúc đụng tới trời. Họ tin Babylon là cái cổng của trời vì chữ Babylon được cấu tạo bởi hai chữ Bab là trời (god) và ili là cái cổng (gate). Babylon chính là Gate of God (Cổng trời).

Vào năm 1917, nhà khảo cổ nổi tiếng người Anh là Sir Leonard Wooley tổ chức một cuộc khai quật thành phố Ur và ông rất ngạc nhiên đã khám phá ra nhiều mồ chôn tập thể. Ngôi mộ lớn nhất là mộ nữ hoàng Shubad. Trong mộ có một cái hang rộng với những bộ xương người nằm ngay ngắn thành nhiều hàng với đầy đủ dấu tích của quần áo, nữ trang, yên ngựa và vũ khí. Bên dưới cái hang này là một con đường dốc dẫn xuống một cái hang hình vuông rộng lớn hơn, tại đó có mộ của nữ hoàng. Dọc đường đi có những bộ xương của một đàn bò (oxen) và chung quanh mộ nữ hoàng là những bộ xương của các nhạc sĩ vì bên cạnh họ có những cây đàn hạc (harps). Tất cả đều nằm ngay ngắn thứ tự chứng tỏ không hề có một sự phản kháng nào. Bên cạnh mỗi bộ xương có một cái tách chứng tỏ họ đã uống thuốc ngủ hoặc thuốc an thần để đi vào kiếp sau với nữ hoàng một cách êm ái.

Thành phố Ur được xây cất vào khoảng năm 5000 TCN ( đọc sách dẫn chiếu tới đây, nơi trang 16-18, kẻ viết bài này chợt liên tưởng đến vụ tự sát tập thể của những người thuộc giáo phái "Adventist" Cổng Trời ở San Diego cách đây mấy năm. Thật không ngờ tâm linh của những người Kitô Giáo đương thời của chúng ta chẳng khác gì tâm linh của những người sơ khai (primitive) ở Ur cách đây trên 7000 năm!) .Từ thời đó, người Babylon biết khai thác mỏ lấy đồng và thiếc). Họ biết pha 10% thiếc vào đồng nấu chảy để hòa với nhau thành hợp kim gọi là thau để đúc thành các vật dụng cứng như lưỡi cày, vũ khí, mũi tên, bánh xe.

Họ là những người đã chế ra bánh xe và từ đó tạo ra những toa xe (wagon) hoặc xe chở người do ngựa hoặc bò kéo. Vàng được dùng làm nữ trang và thiếc được dùng để làm các tượng thần.

Mỗi thành phố là một quốc gia đô thị (giống như Quốc gia Đô thị Vatican = Stato Citta del Vaticano) và thường hay có chiến tranh với nhau.( giống như quân của giáo hoàng kéo đến tấn công quốc gia đô thị Florence, quê hương của nhà danh họa Michel Angelo vào thế kỷ 16 tàn sát trên 3000 người dân tại đây). Với những phát minh về bánh xe và thau, họ đã làm cho ngành giao thông thương mại phát triển. Với lưỡi cày cứng, họ làm cho đồng ruộng được cày sâu nên hoa màu tươi tốt hơn. Nhưng đồng thời với những vũ khí cải tiến, chiến tranh giữa họ với nhau cũng đẩm máu và tàn phá ghê gớm hơn. Sau đây là một trích đọan rút ra từ một trang báo National Geographic Magazine phù hợp với nội dung của các phần đã trình bày :

(An awsome record of human achievement defines the history of Mesopotamia - the Land between the rivers. Traditional birthplace of man for Jews, Christians and Muslim. It provided seed and soil for nearly all that is good and evil in modern life, litterature, medicine and science, despotism and warfare. Unprotected by natural barrier at the mercy of unpredictable rivers, the region endured and profited from legion of invaders and migrants whose blood mingles with that today Iraq. Babylon had been the capital more than a thousand years when it was shacked by the Assyrians in 689 B.C., under Nebuchadnezza, it rose phoenix-like to become the greatest city in the world. Traditional birthplace of Abraham, the Royal City of Ur was abandoned in the fourth century B.C. after the Euphrate changed course , leaving UR enclosed by desert. Artifacts excavated at Eridu date from before 5,000 B.C. fixing it as Mesopotamia 's oldest city. IRAQ' S ANCIENT HERITAGE. National Geographic Magazine May- 1991)

Trong số các phát minh của dân tộc Sumer, sự phát minh ra chữ viết cuneiform phải được kể là quan trọng hơn cả. Nhờ đó nhà vua đã có thể ban ra các chỉ thị cho các viên chức, quân lính và thần dân. Các tu sĩ làm ra các bài kinh, các câu thơ, các huyền thoại lưu truyền khắp dân gian và lan sang các nước lân cận. Họ không thể tưởng tượng được những huyền thoại do họ sáng tác đã làm thay đổi bộ mặt thế giới một các sâu rộng cho tới ngày nay. Thí dụ như chuyện Noah đóng tàu lớn để tránh nạn lụt (người Sumer gọi Noah là Nipishtim). Huyền thoại về Đấng Cứu Thế Tammuz (Tammuz, The Savior) người Do Thái dịch ra là Messiah từ thiên niên kỷ thứ hai TCN. Năm 332 TCN, Alexander the Great chinh phục toàn vùng Cận Đông, trong đó có Do Thái và Babylon mở đầu thời kỳ truyền bá văn hóa Hy Lạp (Hellenistic Period) kéo dài 180 năm từ 332 đến 152 TCN. Hầu hết mọi người Do Thái trí thức đều nói và viết tiếng Hy Lạp. Do đó,toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước đã được dịch sang tiếng Hy Lạp trong thời kỳ này. Sau này, từ giữa đến cuối thế kỷ I sau Công Nguyên, các Kinh Thánh Tân Ước đều được người Do Thái viết bằng tiếng Hy Lạp, mặc dù Chúa Jesus và các tông đồ đều không biết tiếng Hy Lạp và cũng không biết tiếng Hebrew mà chỉ nói tiếng Aramic là ngôn ngữ của người Syria. Người ta dịch chữ Messiah (Đấng Cứu Thế) ra tiếng Hy Lạp là Christos. Anh và Pháp phiên âm thành Christ. Các cha cố Tây Ban Nha sang Việt Nam truyền đạo gọi Chúa Cứu Thế là Cristo. Công Giáo Việt Nam phiên âm thành Ki-ri-xi-tô. Sau này giáo hội Công Giáo Việt Nam đã bỏ không xài danh từ Ki-ri-xi-tô nữa vì nghe nó có vẻ vừa Tây vừa dài quá nên rút gọn lại thành "Ki-tô".

Xin đừng lầm "Ki Tô" phiên âm từ tiếng Tây Ban Nha CRISTO với "Gia-tô" là tiếng người Hoa phiên âm tên của JESUS. Nguời Hoa viết là "Gia Tô" nhưng phát âm thành "Giê Su" vì các vần "T" trong tiếng Việt người Hoa phát âm thành "S". Thí du: Tam Đa thành Samtor, Tam nguyên thành sám mắn, Đại tiểu thành Tài-sỉu, Tây Cống thành Sài Gòn v. v... Trên thế giới này chỉ có Đạo Kitô tức Christianity chứ không có đạo nào gọi là Đạo Giê Su hay đạo Gia Tô (never Religion of Jesus) như người Việt mình ngày xưa thường gọi sai.

Kitô là huyền thoại xuất phát từ Babylon đã có từ nhiều ngàn năm trước Công Nguyên. Còn Jesus là một gã thợ mộc Do Thái, thất học mù chữ, sinh khoảng năm thứ 4 TCN, cao 6 ft, nặng 12 stones rưỡi ( đơn vị đo lường thời cổ của Do Thái ) tương đương 1 mét 82 và 79 kí lô. Jesus đã được thần thánh hóa bằng huyền thoại Kitô của Babylon (Jesus was Christed to become God!) để trở thành Ngôi Lời Nhập Thể hay Nhập Tràng cho những kẻ ngu thờ phượng.

Khi Alexander the Great chiếm Cận Đông thì Babylon đã bị trận lụt lớn phá hủy được ít lâu. Alexander muốn phục hồi nền văn minh rực rỡ của Babylon và có ý chọn Babylon làm thủ đô của đế quốc Hy Lạp. Ý định này chưa thành thì ông đã qua đời (Sumer and Babylon, H. Mellersh, Crowell NY 1965, P.80 )

Người Hy lạp rất khâm phục các vườn treo ở Babylon và coi những vườn này là một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ. Tuy những vườn này được gọi là vườn treo (hanging gardens) nhưng thực ra không phải là treo mà đã được xây dựng ở trên sân thượng rất rộng của các lâu đài đồ sộ như hoàng cung hay trên nóc các đền thờ lớn, khiến cho từ xa nhìn lên mọi người đều có cảm tưởng như các vườn đó được treo lơ lửng trên trời! Người Babylon gọi xứ sở của họ là Khu Vườn Ở Phía Đông (tiếng Sumer là Gan Eden) Người Do Thái ví thiên đàng như Vườn Địa Đàng của Babylon. Tôn giáo của dân Sumer coi Babylon là bản sao của Thiên đàng (a replica of Heaven). Người Sumer ngụ ý thành phố của họ là Ánh Sáng (cũng như Ur là Ánh Sáng): Đến với Babylon là đi tìm ánh sáng mặt trời ở phương Đông! Do nguồn gốc vườn Địa Đàng (Gan-Eden / Garden of Eden) của Babylon, những tu sĩ Do Thái viết Kinh Cựu Ước đã phịa ra chuyện Adong Evà được Chúa tạo ra tại vườn Địa Đàng là tổ tiên loài người và biến câu chuyện thần thoại về việc Adong Evà ăn trái cấm thành Tội Tổ Tông (The Original Sin). Vào thế kỷ thứ 4, nhà thần học số một của Kitô Giáo là Augustin đã dựa vào chuyện Vườn Địa Đàng trong Cựu Ước viết sách nguyền rủa phụ nữ: "Mỗi phụ nữ là một Eva, các người là cái cổng của quỉ dữ. Các người là kẻ đào ngũ đầu tiên khỏi luật của Chúa. Các người đã tàn phá đàn ông - hình ảnh của Chúa. Chỉ vì cái tội đào ngũ của các người mà Con của Thiên Chúa phải chết" (Do you know that you are each an Eve. You are the Devil's gateaway. You are the first deserter of divine law. You so carelessly destroyed man - god's image. On account of your desertion, even The Son of God had to die - "On Female Dress". Augustin). Từ lý thuyết của Augustin, Vatican đã đẻ ra luật nam tu sĩ độc thân, luật không cho phụ nữ làm linh mục, óc kỳ thị phụ nữ và coi họ như cái bẫy cám dỗ đàn ông phạm tội..

Augustin cho rằng mọi người đều mắc tội tổ tông truyền kiếp vì đã sinh ra do sự giao cấu của cha mẹ. Đức Mẹ Maria không giao cấu với Chúa Thánh Thần và sinh ra Chúa Jesus mà vẫn còn trinh nên chỉ có Chúa Jesus và Đức Mẹ Maria là không bị nhiễm tội tổ tông. Augustin đã vin vào thần thoại Gan Eden của Babylon để xây dựng nên giáo lý "Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội" - Thánh Bổn mạng của Địa Phận Bùi Chu yêu quý !.

Augustin là người Algérie, là cha đẻ của giáo hội Kitô nguyên thủy và cũng là người sáng lập hệ tư tưởng Tây phương. Tư tưởng của ông nhiễm nặng tư tưởng của Babylon qua trung gian Cựu Ước Do Thái. Nền văn minh Babylon đã lan ra khắp Tây phương do sự bành trướng của Kitô Giáo trong 2000 năm qua.

Trong 6 thế kỷ đầu Công Nguyên, toàn vùng Bắc Phi Ai Cập, các nước Cận Đông cho tới Thổ Nhĩ Kỳ thuộc Âu Châu đều nằm trong vùng ảnh hưởng của Kitô Giáo. Hồi Giáo bắt đầu bành trướng vào đầu thế kỷ thứ 7. Năm 630 họ chiếm Jerusalem. Đến giữa thế kỷ 8, đế quốc Hồi Giáo chiếm toàn vẹn vùng Bắc Phi, Ai Cập, các nước từ vùng Cận Đông đến Thổ Nhĩ Kỳ và biến các nước Kitô giáo này thành các quốc gia Hồi Giáo. Nhưng dù là Kitô Giáo hay Hồi Giáo, tất cả cũng đều cùng một nguồn gốc văn hóa của Do Thái vốn là hậu duệ của Babylon.

Babylon ngày nay chỉ còn là một bãi sa mạc hoang vu đầy những gò đống và hang lỗ chằng chịt do sự khai quật của các nhà khảo cổ và do dân quanh vùng đào lấy gạch về xây nhà riêng. Người ta đã cố gắng làm nhiều con sông đào để dẫn nước vào vùng sa mạc này nhưng vô ích, nó vĩnh viễn không bao giờ trở lại thành "Vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu" như xưa. Con cháu của Mahomét đã xây cất một thủ đô khác là Baghdad cách đống tro tàn Babylon khoảng 80 dặm về phía Bắc và ở phía bên kia của Lưỡng Hà Châu.

Tìm hiểu thêm về những phát minh đầu tiên của dân tộc Sumer:

Nhà bác học của ngành khảo cổ người Mỹ Sumuel Noah Kramer, sinh vào cuối thế kỷ 19, đặc biệt chú ý đến văn hóa Babylon và bỏ ra gần cả cuộc đời nghiên cứu chữ viết cuneiform của người Sumerian. Ông trở thành giáo sư chuyên dạy về môn khảo cổ học tại Đại Học Pennsylvania. Ông và các đồng sự hoàn thành bộ tự điển 18 tập về ngôn ngữ Sumerian. Năm 1956, giáo sư Kramer cho xuất bản lần đầu tác phẩm "History begins at Sumer". Từ đó cho đến 1980, với sự giúp đỡ của nhiều cơ quan văn hóa Hoa Kỳ, ông đã đi đến nhiều bảo tàng viện trên thế giới sao chép các di vật thâu lượm được ở Babylon để nghiên cứu và bổ túc cho tác phẩm của ông. Tới nay, tác phẩm History begins at Sumer đã được tu chính và tái bản lần thứ tư (1994). Theo tác giả thì người ta có thể liệt kê tới 39 phát minh đầu tiên của nhân loại là do dân tộc Sumer, đại lược như sau:

Ngoài những phát minh nổi tiếng trong thế giới cổ mà người ta biết xuất phát từ Babylon là bánh xe, vòng tròn có 360 độ, một giờ có 60 phút, hợp kim đồng pha thiếc, dẫn thủy nhập điền... Dân tộc Sumer còn là tác giả của nhiều sản phẩm văn hóa và những phát kiến đầu tiên thuộc nhiều lãnh vực:

-Về giáo dục, người Sumer đã mở trường dạy học sau khi đã phát minh ra chữ viết vào cuối thiên niên kỷ thứ tư trước Công Nguyên (khoảng 3150 TCN). Họ gọi trường học là "nhà của những tấm đất sét" (clay tablet house) gọi thầy giáo là cha (school father) học trò là con (school son) phụ giảng là anh lớn (big brother). Học trò bị phạt kỷ luật bằng roi hay bằng gậy. Năm 1934, một nhà khảo cổ Pháp đã khai quật tại thành phố Mari một ngôi trường học có nhiều hàng ghế bằng đất sét, mỗi ghế ngồi được một, hai hoặc ba người. Tới nay, người ta đã phát giác thêm nhiều ngôi trường học tại Nippur, Snippa và UR. Những di vật đáng chú ý là bộ tự điển Sumer - Akkadian (ngôn ngữ của giống dân Ả Rập lai Do Thái). Sách lịch sử kể chuyện các đời vua tại UR và Nanshe từ thượng cổ đến vua Sargon (2600 TCN).

Năm 1895, các nhà khảo cổ tìm thấy hai cột hình trụ lớn bằng đất sét. Hai cột này được đưa về trường Đại Học Yale để nghiên cứu. Sau hơn hai mươi năm làm việc cần mẫn của những người trí thức quyết tâm phụng sự chân lý, công cuộc nghiên cứu về dịch thuật mới hoàn tất. Theo giáo sư François Thureau Dargin thì hai cột trụ này là hai cuốn sử ghi chép các trận chiến và nhiều sử liệu về các vua chúa tướng lãnh dưới triều đại Entemena (3000 TCN). Ngoài ra, người chép sử cũng mô tả các sinh hoạt kinh tế xã hội trong đời sống dân chúng, trong đó có cả việc nhà vua đặc miễn cho dân Lagash không phải đóng thuế trong 30 năm. Ta có thể coi đây là những cuốn sử đầu tiên của loài người.

Năm 1951, các nhà khảo cổ tìm thấy 19 tấm đất sét tại Nippur, được xác định niên đại vào khoảng 2400 TCN. Đáng chú ý là những tấm đất sét này đã ghi lại tư tưởng của dân tộc Sumer nghĩ về con người và cuộc đời. Theo họ, con người đã được sinh ra từ đất sét và được sinh ra để phục vụ các vị thần (con người phải phục vụ tôn giáo chứ không phải tôn giáo phục vụ con người). (Sumerian thinkers firmly convinced that man was fashioned of clay and created for one purpose only: to serve gods by supplying them with food, drink or shelter so that they might have leisure for their divine activities - sách dẫn chiếu tr. 101). Quan niệm này đã ăn sâu vào đạo Do Thái, đạo Kitô và đạo Hồi. Tín đồ các đạo này đều tin rằng Thiên Chúa đã tạo ra con người từ đất sét để con người thờ phụng kính mến Chúa trên hết mọi sự. Mọi người Tây phương chịu ảnh hưởng của các đạo này tới nay vẫn tin rằng con người đã được sinh ra từ đất sét. Có lẽ từ quan niệm thiếu nhân bản đó, người Tây phương cũng như những tín đồ Ki Tô Giáo đã coi rẻ con người và đã gây nhiều cuộc thánh chiến đẫm máu để bảo vệ tôn giáo bất chính của mình .

(Riêng một nhận định này cũng đủ cho ta thấy giá trị nhân bản cao đẹp của tam giáo Phật Khổng Lão đã ăn sâu vào tâm thức Việt Tộc đầy tình người chúng ta. Công Giáo đã xâm nhập nước ta hơn bốn trăm năm, nhưng rõ ràng là tôn giáo phi nhân tính này không thể bắt rễ sâu trong lòng dân tộc Việt Nam. Nó chỉ có thể xâm nhập và phát triển trên đất nước ta bằng bạo lực của bọn xâm lược hoặc bằng những thủ đoạn lừa gạt gian manh đối với những người kém hiểu biết mà thôi. Cho đến muôn đời sẽ chẳng bao giờ có được một thứ văn hóa hòa đồng "Tứ Giáo Đồng Nguyên" như ước mong của những kẻ lãnh đạo cái thứ "Đạo Vô Đạo" này. Công Giáo La Mã chỉ là một tà đạo đã được sinh ra để loài người nguyền rủa cho đến muôn đời. Tham vọng của mọi kẻ lưu manh chính trị muốn dùng Công Giáo La Mã để xâm phạm chủ quyền, sinh mạng và danh dự Việt Nam sẽ mãi mãi chỉ là một ảo tưởng của những kẻ mơ ngủ giữa ban ngày.

Trước khi tìm ra những di vật tại Babylon, mọi người vẫn tin rằng Sách Cách Ngôn (Biblical Books of Proberb) trong kinh Thánh Cựu Ước Do Thái là sách cách ngôn cổ nhất. Sau đó, nhiều sách cách ngôn của Ai Cập đã được tìm ra và được xác nhận niên đại trước sách cách ngôn của bộ Kinh Thánh Cựu Ước nhiều thế kỷ. Tới khi các tấm đất sét ghi cách ngôn của Sumer được phát giác, mọi người mới vỡ lẽ ra là các sách cách ngôn nói trên đều là vay mượn từ Babylon. Năm 1934, giáo sư Edward Chierra thuộc đại học Pensylvania công bố bản dịch các cách ngôn từ các tấm đất sét thu lượm tại Nippur được xác định niên đại là thế kỷ 18 TCN.

Năm 1937, hàng trăm bản đất sét ghi cách ngôn Sumer lưu trữ tại Bảo tàng viện Istambul (Thổ Nhĩ Kỳ) được nhiều nhà ngôn ngữ học Sumer (Sumerologists) nghiên cứu, các bản dịch được công bố trong các năm 1951-1952 tạo thành một bộ sưu tập khổng lồ về các cách ngôn cổ của Babylon. Ta có thể đơn cử một số câu cách ngôn tiêu biểu của dân tộc Sumer :

- Người nghèo chết sướng hơn sống vì khi có muối thì không có bánh mì, khi có bánh mì lại không có muối (The poor man is better dead than alive. If he has bread, he has no salt. If he has salt, he has no bread)

- Tiêu xài hoang phí ta sẽ chết, biết tiết kiệm sẽ sống lâu. (We are doomed to die, let us spend. We will live long, let us save).

- Giấc ngủ của người siêng năng làm việc rất ngon lành. (The sleep of a labouring man is sweet).

- Càng có nhiều tiền của càng lo nghĩ nhiều. (Who multiplies possession multiphies worry).

Nhiều tấm đất sét khác kể chuyện ngụ ngôn tương tự như chuyện ngụ ngôn của Aesop (Aesopic Fables). Thí dụ như chuyện cãi nhau giữa Mùa Đông và Mùa Hè. Cuộc tranh luận giữa hạt lúa, cây cối và cánh đồng... Qua các chuyện ngụ ngôn này, các nhà khảo cổ nhận thấy người Sumerians đã biết sắp xếp mọi vật thành từng cặp đối lập (tương tự như dịch lý) nhất là trong lãnh vực nông nghiệp: Chim đối với cá, mùa hè đối với mùa đông, nhà nông đối với người chăn cừu (văn hóa nông nghiệp đối lập với văn hóa du mục), cái cuốc đối với cái cày, cây lớn đối với cây sậy... (sách dẫn chiếu tr. 132-133). Điều thích thú hơn nữa là các nhà khảo cổ phát giác những chuyện kể trong các tấm đất sét này có nhiều chuyện tương tự như trong sách Sáng Thế Ký (Genesis) là cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái. Chẳng hạn như chuyện phân rẽ giữa trời và đất, chuyện con người được nặn ra từ đất sét, chuyện anh em giết nhau (như chuyện Cain và Abel trong Cựu Ước) quan niệm về Nước Chúa (Kingdom of God).

Chuyện thần thoại "Enki và Ninhursag" là một chuyện thơ dài 278 dòng được ghi trên tấm đất sét có 6 cột, hiện lưu trữ tại Bảo tàng Viện Đại Học Pennsylvania (bản sao lưu tại BTV Louvre-Paris) được công bố năm 1945 trong No.1 Bulleting of the American of Oriental Research.

Chuyện kể rằng: Dilmun là đất của sự sống (land of the living) rất sạch và sáng, ở đó không có bệnh tật và sự chết. Đó là khu vườn thiêng liêng (a divine garden của hai người Enki và Ninhursag. Enki là thủy thần (water god), Ninhursag là thổ thần (earth god). Họ là cha mẹ đầu tiên của dân tộc Sumer.

Trong khu vườn thiêng này, tám vị thần ở trên trời trồng 8 cây đặc biệt và cấm không ai được phép ăn. Một hôm, do sự cám dỗ của một vị thần hai mặt (two-face god) là Isimud, Enki đã vi phạm luật trời ăn luôn cả tám cây cấm. Sau đó, Enki bị đau tám bộ phận trong người. Vợ chàng là Ninhursag tức giận, nguyền rủa chồng sẽ phải chết vì tội vi phạm luật của các vị thần và nàng bỏ nhà ra đi. Một con chồn đến gặp Enki và hứa sẽ đi tìm Ninhursag về cho chàng. Con chồn tìm được Ninhursag và dẫn nàng về nhà đoàn tụ lại với chồng. Nàng Ninhurag ngồi bên cạnh chồng khấn vái tám vị thần để chữa tám bộ phận của chồng bị đau. Vị thần chữa xương sườn đau có tên là Ninti. Theo ngôn ngữ Sumer chữ Nin là bà (lady), chữ ti là xương sườn (rib) và cũng có nghĩa là sinh sản. Do đó, Ninti vừa có nghĩa là "lady of the Rib" và cũng có nghĩa là "The Lady who makes life".

Người Do Thái vay mượn chuyện này để sáng tác chuyện Adam và Eva ăn trái cấm trong vườn địa đàng và chuyện Thiên Chúa lấy xương sườn của Adam để tạo ra Eva. Trong ngôn ngữ Sumer, tiếng "ti" vừa có nghĩa là xương sườn vừa có nghĩa là sinh sản nhưng trong ngôn ngữ Hebrew, tiếng 'ti" có nghĩa là xương sườn và tiếng có nghĩa là sinh sản là hai tiếng biệt lập. Tuy nhiên, ý nghĩa của chuyện huyền thoại Sumer nhấn mạnh đến điểm: Trước khi vi phạm luật cấm của các vị thần, con người sống hạnh phúc không biết đau khổ, bệnh tật và không phải chết (trường thọ bất tử). Chính sự vi phạm luật trời của hai vị tổ tiên đã khiến tất cả con cháu muôn đời phải đau khổ, phải chết và đặc biệt là các bà mẹ phải đau đớn khi sinh con. (Sách dẫn chiếu tr. 141- 147).

Ngoài những sáng kiến đầu tiên về giáo dục, toán học và nhất là về tôn giáo tín ngưỡng, người Sumer là dân tộc đầu tiên đã sáng chế ra lưỡi cày kim loại đúc bằng hợp kim đồng pha thiếc (10%). Họ cũng là những người đầu tiên lập hồ nuôi cá kiểng trong nhà, tìm cách trồng rau, trái hoa màu dưới bóng râm của các cây cọ (Shade tree gardening) để tránh ánh nắng chói chang và các cơn bão cát sa mạc.

Về chính trị và luật pháp, họ đã biết cách tổ chức các định chế dân chủ tương tự như lưỡng viện quốc hội: Những tấm đất sét có niên đại 3000 TCN ghi cuộc tranh luận trong buổi họp của những người đàn ông võ trang quyết định việc nên hòa hay chiến (tương tự như war congress). Quyết định của buổi họp này phải được đưa lên Hội đồng của các niên trưởng, trong đó ý kiến của vua là tối hậu, tương tự như Thượng viện (Senate). Họ tổ chức việc xét xử tội phạm thiếu nhi riêng rẽ với việc xét xử người lớn.

Qua trên một thế kỷ sưu tầm, hiện nay các nhà khảo cổ đã thâu lượm được nhiều chục ngàn tấm đất sét của dân tộc Sumer, trong đó có đủ loại văn kiện luật pháp như khế ước, di chúc, biên lai, quyết định của tòa án. Trong đó có nhiều bản ghi chép cùng một chuyện phạm pháp và quyết định của tòa án đã được thâu lượm từ nhiều địa điểm khác nhau. Người ta ước đoán đó có thể là những án lệ đầu tiên được phổ biến trong giới luật pháp để làm khuôn mẫu cho các việc xét xử tội phạm trong hệ thống luật pháp quốc gia.

Babylon là nguồn gốc của các tôn giáo xây dựng giáo lý trên huyền thoại. Các đạo thờ Chúa đều là những tôn giáo xây dựng giáo lý trên căn bản là những huyền thoại của Babylon. Riêng Công Giáo La Mã là đạo đã được sao chép gần như nguyên bản tôn giáo của Babylon. Vì vậy, Hội Nghiên Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow California đã rất hữu lý gọi Công Giáo La Mã là "THE MODERN BABYLON MYSTERY RELIGION".

Phúc Âm Khải Huyền của Thánh Gioan có lời chép bằng chữ lớn rằng : " TÔN GIÁO HUYỀN THOẠI BABYLON VĨ ĐẠI LÀ MẸ CỦA LŨ ĐIẾM THỐI VÀ CỦA NHỮNG CHUYỆN KHỦNG KHIẾP TRÊN TRÁI ĐẤT NÀY " ( MYSTERY BABYLON THE GREAT, MOTHER OF HARLOTS AND ABOMINATIONS OF THE EARTH - Revelation 17: 1 - 6 ).

NHỮNG TRANG KHÁC CỦA KHOA HỌC THẾ KỶ 21

CÁC BÀI ĐĂNG TRƯỚC

TÁC GIẢ THIẾT KẾVÀ BIÊN TẬP

THỜI TRANG VÀ KHOA HOC
TPHCM, TB, Vietnam
THỜI TRANG KHOA HỌC QUẢNG CÁO

CÁC ĐẠO THỜ THIÊN CHÚA LÀ BIẾN DẠNG TỪ ĐẠO THỜ BÒ

CÁC ĐẠO THỜ THIÊN CHÚA LÀ BIẾN DẠNG TỪ ĐẠO THỜ BÒ.

Từ ngàn xưa, con người đã được định nghĩa là con vật có tính thần linh (spiritual animals) nên con người luôn có khuynh hướng tìm về các thần linh thiêng liêng cao hơn mình để tôn thờ hoặc để xin phù hộ ban ơn cứu giúp. Các nhà nghiên cứu nhân chủng học và khảo cổ học đều xác nhận rằng: Khi con người bắt đầu đạt tới trình độ hiểu biết cũng là lúc bắt đầu có tôn giáo (Homo sapiens - Homo Religious). Nói cách khác, khi con người bắt đầu nhận ra mình là NGƯỜI khác với những loài vật là lúc con người bắt đầu thờ thần linh. Vì thế tôn giáo xuất hiện cùng lúc với các tác phẩm mang tính chất nghệ thuật (works of art). Qua các tác phẩm nghệ thuật đó, con người biểu lộ sự ngưỡng mộ của mình trước những bí mật kỳ diệu của thiên nhiên và bày tỏ niềm tin vào một sức mạnh vô hình vượt trên con người. Con người luôn luôn cố gắng tìm cho ra cái ý nghĩa đích thực của cuộc sống trên trái đất. Con người không hài lòng với cuộc đời ngắn ngủi thực tại và muốn cuộc sống phải được kéo dài đến vô tận sau cái chết và dưới một hình thức khác.

Thực sự, tôn giáo là một phản ứng tâm lý tự nhiên của con người trước thiên nhiên kỳ bí. Tuy nhiên, cũng như mọi hoạt động khác của con người, tôn giáo đã bị lạm dụng (abused) và gây ra không biết bao nhiêu tai họa cho con người.

Tôn giáo nào cũng tự coi mình như một chiếc thuyền để chở con người đến bến bờ hạnh phúc. Khổ nỗi, tôn giáo nào cũng coi cái thuyền của mình là duy nhất tốt và duy nhất đi đúng hướng. Tín đồ phần đông đều mù quáng, chỉ biết gục đầu xuống tôn thờ chính cái thuyền của mình mà quên mất bến bờ hạnh phúc chung của nhân loại. Những người lái thuyền, được mệnh danh là các vị lãnh đạo tinh thần, bận tâm đánh chìm các thuyền khác để củng cố địa vị độc tôn của tôn giáo mình. Do đó chiến tranh tôn giáo đã xảy ra liên miên trong lịch sử và đến nay nó vẫn còn tiếp diễn dưới cả hai dạng nóng và lạnh trên khắp các lục địa.

Nhiều người nhận thấy tôn giáo là mối nguy hiểm cho hòa bình thế giới nên họ muốn xóa bỏ mọi tôn giáo. Bắt đầu từ cuối thế kỷ 16 tại Âu Châu, phong trào Soi Sáng (Enlightenment) ra đời và dần dần phát triển thành Phong Trào Bài Trừ Tôn Giáo (Secularism) nhằm thiết lập một Chủ Nghĩa Nhân Đạo Tự Do (Liberal Humanism).

Lý tưởng giải thoát con người khỏi mối hiểm nguy do các tôn giáo gây ra đã được thể hiện rõ ràng nhất trong Tu Chính Án 14 của Hiến Pháp Hoa Kỳ. Trong sách "American Government, Political and Political Culture" của ba tác giả Lyons, Scheb và Richarson (West Publishing Co. 1995) trang 110 viết như sau : "Tu Chính Án Thứ Nhất đòi hỏi thiết lập một bức tường ngăn cách giữa giáo hội và quốc gia. Và mặc dầu điều khoản thiết lập đó của Tu Chính Án chỉ được áp dụng cho Quốc Hội, nhưng Tối Cao Pháp Viện đã qui định rằng nguyên tắc tách rời Giáo hội ra khỏi Quốc gia phải được áp dụng đồng đều cho Liên bang cũng như mọi chính quyền địa phương theo Tu Chính Án 14 của Hiến Pháp, theo dó, chính sách của chính quyền phải theo đuổi mục tiêu có tính thế tục hoặc vô tôn giáo". (The First Amendment requires a wall of separation between church and state. And, although the First Amendment 's Establishment Clause applies only to Congress, the Supreme Court has held that the principle of separation of church and state applies equally to state and local governments under the Fourteenth Amendment : a government policy must have a secular or nonreligious purpose )

Chủ nghĩa Thế Tục Hóa Xã Hội (Secularism) là một quan niệm mới về tôn giáo : Việc chính đáng của con người là lo phục vụ lợi ích của con người chứ không thể bắt con người phải hy sinh để phục vụ thần linh. Con người là chính yếu trên thế gian này chứ không phải là một vị thần nào cả. Con người được sinh ra trên thế gian không phải chỉ để lo có một việc duy nhất là phải "thờ phượng kính mến Đức Chúa Trời trên hết mọi sự" để rồi quên khuấy mọi người ở quanh mình. Điều chúng ta cần phải quan tâm hiện nay là cái chết của nhân loại chứ không phải là cái chết của Thượng Đế.

Chủ Nghĩa Nhân Đạo Tự Do là một tôn giáo không cần Thiên Chúa (a religion without God)*. Nói "không cần Thiên Chúa" không có nghĩa là không cần tôn giáo vì không phải tôn giáo nào cũng là hữu thần (theist) mà cũng có tôn giáo vô thần (atheist) như đạo Phật chẳng hạn.*

Thực tế mà nói, Thiên Chúa chẳng qua chỉ là sự kéo dài những nhu cầu và ước vọng của con người (a projection of human needs and desires). Thiên Chúa chỉ là tấm gương phản chiếu những mối lo sợ và những nỗi khao khát của xã hội cơn người trong mỗi giai đoạn phát triển của nó. Thiên Chúa của Thánh Kinh (God of the Bible) hoàn toàn là một sản phẩm tưởng tượng của con người nhưng lại là một thực tế hắc ám nhất trong đời sống nhân loại suốt trên 4.000 năm qua!

Trong tác phẩm A HISTORY OF GOD (460 trang, the New York Times Best-seller. Ballantine Books xuất bản 1993), tác giả là nữ tiến sĩ Karen Amstrong, nguyên nữ tu Công Giáo và nguyên giáo sư Đại Học Leo Baeck Anh Quốc, đã viết rất chí lý như sau:

"Cuốn sách này không phải là cuốn sử về Thiên Chúa thật vì Thiên Chúa thật là điều không ai có thể tả hoặc nói lên được (ineffable), ngài vượt ra ngoài thời gian và mọi sự đổi thay, nhưng đây là cuốn sử đề cập đến những nhận định về Thiên Chúa của những người đàn ông và đàn bà từ thời Abraham cho tới nay". (This book will not be a history of the ineffable reality of God itself, which is beyond time and change, but a history of the way men and women have perceived Him from Abraham to the present day. The human idea of God has a history, page XX). Ý tưởng của con người về Thiên Chúa có lịch sử của nó. Vậy, nói đến lịch sử Thiên Chúa là nói đến lịch sử các quan niệm của con người về Thiên Chúa. Nói cách khác, lịch sử Thiên Chúa là lịch sử hình thành các tôn giáo thờ một vị Thiên Chúa Duy Nhất (The One-God Religions) còn được gọi là Thiên Chúa Giáo hoặc Độc Thần Giáo (Monotheism, Monotheist religions).

Đối với người Việt Nam chúng ta, vấn đề danh từ đã làm cho hầu hết chúng ta có những ngộ nhận về Thiên Chúa Giáo. Danh từ Christianity thường được dịch là Thiên Chúa Giáo thật sự không được chính xác. Christianity là Kitô Giáo vì nguyên ngữ của nó là Christ (Chúa Kitô). Christians nên được dịch là người theo đạo Kitô, hoặc Kitô hữu, hoặc tín đồ Ki Tô Giáo, bao gồm tất cả những người tin thờ Jesus là Chúa Cứu Thế (Christ).

Không riêng gì những người Công Giáo tôn thờ và tin rằng MR.JESUS là Đấng Cứu Thế (Chúa Kitô) mà những tín đồ Chính Thống Giáo ở Nga, Hy Lạp, Đông Âu, Anh Giáo ở Anh, Úc, Tân Tây Lan và hàng trăm giáo phái Tin Lành, Cơ Đốc Phục Lâm, Báp Tít, Mormon, Methodists.... ở Hoa Kỳ và nhiều nước khác cũng đều tin như vậy cả. Đó là niềm tin Ki Tô. Ai có niềm tin Ki Tô thì người đó là Christian. Tuy có cùng một niềm tin Ki Tô nhưng những người anh em Ki Tô thường xuyên có thánh chiến với nhau và giết nhau như ngóe. Nếu không có niềm tin Ki Tô quái đản đó thì người ta sẽ không còn lý do để chém giết nhau nữa !

Tất cả các tôn giáo thờ Jesus và tin Ngài là Đấng Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người chuộc tội cứu thế, đều được gọi chung là Ki -Tô Giáo. Công Giáo chỉ là một ngành chính trong hệ thống các đạo Ki Tô (Roman Catholic is the main line of Christianity) và toàn bộ các đạo Ki Tô cũng chỉ là một hệ phái trong hệ thống Độc Thần Giáo gồm có cái gốc của hệ thống này là Do Thái Giáo. Sau hết, cả hai tôn giáo Độc Thần là Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo đã phát sinh một hệ phái thứ ba là Hồi Giáo vào giữa thế kỷ 7. Người Việt Nam chúng ta thường lầm lẫn gọi Công Giáo La Mã là Thiên Chúa Giáo hoặc Đạo Thiên Chúa (Montheism) . Thực sự, Thiên Chúa Giáo bao gồm rất nhiều tôn giáo bao gồm tất cả các đạo thờ Thiên Chúa của Thánh Kinh Cựu Ước Do Thái (God of the Bible) cùng những tín điều căn bản về thiên đàng, địa ngục, tổ tông loài người là A-Dong E-Và, thiên thần truyền tin Gabriel và nhất là đều nhận Abraham làm tổ phụ của tôn giáo mình. Đó là các đạo Do Thái, Ki Tô và đạo Hồi.

Jesus là một nhân vật có thật, được phỏng định sinh khoảng năm từ 6 đến 4 trước Công Nguyên. Kitô là một nhân vật thần thoại của Do thái, bắt nguồn sâu xa từ huyền thoại Babylon đã có từ nhiều ngàn năm trước khi Do Thái lập quốc. Tiếng Việt KI-TÔ được phiên âm từ tiếng Tây Ban Nha "Cristo" do các giáo sĩ Tây Ban Nha đến giảng đạo ở nước ta lần đầu vào tiền bán thế kỷ 16. Trong những thế kỷ trước, người Công Giáo Việt Nam phiên âm danh từ CRISTO thành "Chúa Ki-Ri-Xi-Tô". Trước 1954, các bài kinh giáo dân Việt Nam thường đọc có những câu như: "Chúa Ki-Ri-Xi-Tô thương xót chúng tôi, Chúa Ki-Ri-Xi-Tô nhậm lời chúng tôi". Sau 1954 danh từ Ki-Ri-Xi-Tô đã được rút gọn lại là Kitô. Các kinh sách Công Giáo hiện nay đều viết "Chúa Giê Su Ki tô". Vậy thiết nghĩ chúng ta không nên dịch chữ Christianity là Thiên Chúa Giáo mà nên dịch là Kitô Giáo cho sát nghĩa. Kitô là một ý niệm đặc biệt của người Do Thái đã có từ nhiều thế kỷ trước khi Chúa Jesus ra đời. Nguyên gốc tiếng Do Thái là Messiah, có nghĩa là một vị cứu tinh của dân tộc Do Thái. Vị đó thuộc dòng dõi vua David, sẽ sinh ra và cứu dân tộc Do Thái thoát ách nô lệ ngoại bang, cuối cùng sẽ đưa dân tộc Do Thái lên một địa vị cao hơn các dân tộc khác. Lúc đầu, tiếng Messiah chỉ có nghĩa là một minh quân David mới của Do Thái (a new King David) hoặc là một Đấng Cứu Chúa của dân tộc đã được Chúa chọn (the Savior of the chosen people). Nhưng với sự phát triển của giáo lý đạo Kitô, chữ Messiah đã bị biến nghĩa thành Chúa Cứu Thế chuộc tội nhân loại (The Redeemer of mankind).Trong thế kỷ thứ tư và thứ ba trước Công Nguyên, Do Thái bị Hy Lạp cai trị. Những người giàu và giới quyền thế Do Thái hầu hết đều rất thông thạo tiếng Hy Lạp. Do đó, các cuốn kinh thánh của đạo Do Thái đã được dịch sang tiếng Hy Lạp từ vài trăm năm trước Công Nguyên.

Chữ Messiah của Do Thái đã được người Hy lạp dịch ra là Christos. Tiếng Anh và tiếng Pháp sau này phiên âm thành Christ. Tiếng La Tinh là Christus. Tiếng Tây Ban Nha là Cristo. Công Giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng của các cố đạo Tây Ban Nha nên đã phiên âm tên của Chúa và các thánh từ tiếng Tây Ban Nha. Thí dụ:

Anh Pháp La Tinh TB Nha V N

Christ

Mary

Peter

Paul

Francis Christ

Marie

Pierre

Paul Francis Christus

Maria

Petrus

Paulus Francis Cristo =

Maria =

Pedro =

Pabblo = Francisco = Kitô

Maria

Phê rô

Phao lô Phanxicô

Chúa Jesus là một người thật, còn Chúa Kitô là một nhân vật huyền thoại được tạo thành do sự mong ước của dân tộc Do Thái. Đặc tính của Chúa Kitô là giải thoát mọi người bị áp bức (to let the oppressed go free) theo định nghĩa của tiên tri Isaiah, thế kỷ 8 trước Công Nguyên. Người Do Thái không công nhận Jesus là Kitô vì Jesus đã không làm nỗi cái công việc giải cứu những người bị áp bức. Tới nay, người Do Thái vẫn tin rằng Chúa Cứu Thế Kitô chưa ra đời. Họ chỉ tôn thờ Thiên Chúa mà họ gọi là Jehovah, xưa kia tổ tiên của họ gọi là Elohim. Đối với những người theo đạo Kitô thì Jehorah là Đức Chúa Cha, Jesus là Đức Chúa Con và ngôi thứ ba của Thiên Chúa là Đức Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi Thiên Chúa là Một Đức Chúa Trời. Đó là quan niệm của Ki Tô Giáo về Thiên Chúa (Christian God : Trinity God).

Những người Hồi Giáo tôn thờ Thiên Chúa của đạo Do Thái, tiếng Ả Rập gọi là ALLAH (God), tức là Đức Chúa Cha của đạo Kitô. Họ coi các vị lập các đạo này, từ Abraham đến Moses và Jesus, là các thánh tiên tri (prophets). Đạo Do Thái và đạo Hồi quan niệm Thiên Chúa là Duy Nhất (Unity God) khác với đạo Kitô quan niệm Thiên Chúa Ba Ngôi (Trinity God). Theo người Tây phương, bao gồm các quốc gia Âu Mỹ, Do Thái và Ả Rập, Thiên Chúa Giáo là các tôn giáo thờ MỘT THIÊN CHÚA (The One-God Religions) được mệnh danh là ĐỘC THẦN GIÁO (Monotheism). Danh từ Monotheism xuất phát từ tiếng Hy Lạp: "Mono" là Một, "Theo" là Thiên Chúa. Theo quan điểm của người Tây Phương thì Thiên Chúa Giáo, tức Độc Thần Giáo, gồm có 4 đạo:

1. Khới đầu là đạo Do Thái Nguyên Thủy (Pre-Mosaic Judaism) là đạo thờ bò El.

2. Đạo Do Thái hiện nay do Moses lập ra từ năm 1250 TCN (Mosaic Judaism) thờ Jehovah.

3. Giữa thế kỷ 1, Đạo Kitô nguyên thủy xuất hiện và tồn tại đến đầu thế kỷ 4. Quan niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi chưa thành hình. Đế quốc La Mã tiêu diệt các giáo phái Ki Tô nguyên thủy để lập ra đạo phục tùng đế quốc là Công Giáo La Mã. Quan niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi xuất hiện trong Công đồng đầu tiên tại Nicaea năm 325 và phải đợi đến thế kỷ 5 quan niệm Thiên Chúa Ba Ngôi mới được kiện toàn bởi nhà thần học người Algeria là Augustine (396- 430).

Danh từ Công Giáo La Mã (Roman Catholic) có nghĩa là : một giáo phái Công Giáo, trong hệ thống Ki Tô Giáo, thuộc quyền cai quản của giáo hoàng ở Vatican. Ngoài Công Giáo La Mã còn có nhiều giáo hội Công Giáo khác không có liên hệ gì với Vatican như Công Giáo Hy Lạp (Greek Catholic), Công Giáo Ai Cập và Ethiopie (Coptic), Công Giáo Nam Phi với giám mục nổi tiếng Desmond Tutu v.v... Công Giáo La Mã cũng chỉ là một ngành lớn trong hệ thống Ki tô giáo. Ngoài Công Giáo La Mã ra còn có nhiều tôn giáo khác cũng là Ki tô giáo như Chính Thống Giáo, Anh Giáo và hàng vài trăm giáo phái Tin Lành độc lập khác. Các tự điển Anh Việt, Pháp Việt thường dịch Christianity (Pháp: Christianisme) là Thiên Chúa Giáo đều sai lầm vì căn ngữ của Christianity là Christ (chúa Kitô) do đó chúng ta nên dịch Christianity là Kitô Giáo, Christian là tín đồ đạo Kitô hoặc Kitô hữu. Kitô Giáo chỉ là một trong 3 ngành (lines) của Thiên Chúa Giáo mà thôi. Hai ngành kia là Do Thái Giáo và Hồi Giáo.

Thiên Chúa Giáo là sản phẩm văn hóa của Tây Phương, vậy muốn hiểu đúng nghĩa tôn giáo này, chúng ta nên hiểu Thiên Chúa Giáo là Độc Thần Giáo (Monotheism) theo quan điểm của họ. Quan điểm của Tây phương về từ ngữ HEATHEN cũng có một ý nghĩa đặc biệt. Nếu chúng ta dịch "heathen" là "ngoại đạo", chúng ta sẽ hiểu sai ý nghĩa đích thực của nó. Các tự điển Webster và American Heritage đều định nghĩa từ ngữ HEATHEN (noun) : anyone not a Jew, a Christian or Muslim. và HEATHEN (adj) : pagan, irreligious, uncivilized, barbarous.

Rõ ràng từ ngữ heathen (ngoại đạo) được dùng để chỉ những người hoặc những tôn giáo nằm ngoài hệ thống Độc Thần Giáo (bao gồm đạo Do Thái, đạo Kitô và Hồi). Đồng thời nó cũng cho ta thấy cách nhìn chủ quan rất cao ngạo của Thiên Chúa Giáo coi mọi người ngoại đạo là những kẻ ngu đốt, thiếu văn minh hoặc nói trắng ra là mọi rợ (barbarous). Thực sự Thiên chúa Giáo chỉ là những biến thái của đạo thờ bò, chẳng có gì đáng làm cho họ hãnh diện.

I. ĐẠO DO THÁI

Trên phương diện lịch sử khách quan, Thiên Chúa Giáo đã khởi nguồn từ đạo thờ bò El của Abraham và biến thể thành đạo Do Thái của Moses. Đến thế kỷ thứ 2 TCN, Do thái Giáo bị phân tán thành 3 giáo phái là Pharisees, Sadducees và Essenes*. Gia đình Jesus vốn theo giáo phái Pharisees là giáo phái chiếm giữ đền thờ Jerusalem nên cha mẹ Jesus thường đưa con đến đây dự lễ. Năm 30 tuổi, Jesus bỏ Pharisees theo giáo phái Essenes của John the Baptist và được John Baptist ban phép rửa tội trên sông Jordan để gia nhập giáo phái này. Từ đó, Jesus bị ảnh hưởng sâu đậm giáo lý của John nên ngày nay các học giả Tây Phương đã coi giáo phái Essenes là tiền thân của đạo Kitô. Họ gọi giáo phái Essenes là "Đạo Kitô trước Jesus" (Christianity before Jesus). Đạo Do Thái là gốc của Thiên Chúa Giáo hiện chỉ có 14 triệu tín đồ trên khắp thế giới.

II. ĐẠO KITÔ

Đạo Kitô không phải đã được sáng lập bởi Jesus, mà thực sự đã được thành lập bởi Paul (tức Phao lồ, sinh năm thứ 5 sau Công Nguyên, chết năm 67) nên các học giả Tây phương thường gọi Đạo Kitô là Thần học của Paul (The Pauline Theology). Lúc đầu đạo này lấy danh xưng là Kitô Giáo (Christianity) vì họ tôn Jesus lên làm Chúa Ki-tô và ghép liền hai từ này làm một thành Jesus-Christ (Giêsu Ki-Tô). Sau gần 3 thế kỷ, mặc dầu bị các hoàng đế La Mã giết hại rất nhiều, đạo Kitô vẫn bành trướng ra khắp đế quốc La Mã và các nước Cận Đông. Hoàng đế La Mã Constantine (285-337) nhận thấy không thể tiêu diệt đạo Kitô bằng vũ lực vì các tín đồ đạo này rất cuồng tín. Do đó, vào năm 313, Constantine đã quyết định bỏ lệnh cấm đạo Ki Tô. Năm 325 y triệu tập Công Đồng Nicaea để thống nhất và củng cố đạo Kitô nhằm mục đích biến nó thành một lợi khí xâm lược thế giới. Khẩu hiệu của y là "IN HOC SIGNO VINCES": Với dấu hiệu Thánh Giá ta sẽ chiến thắng toàn cầu!

Trong tình hình thế giới hiện nay, khối Ả Rập Hồi Giáo cuồng tín với chủ nghĩa khủng bố quốc tế đang đứng trước nguy cơ sẽ bị tiêu diệt bởi sức mạnh quân sự của Mỹ và đồng minh. Công Giáo La Mã bề ngoài có vẽ như vẫn còn nguyên vẹn, thực sự đầu não của nó là Tòa thánh Vatican đã bị đảo chánh trong Công đồng Vatican II vào tháng 10 năm 1962. Đó là "Cuộc Cách Mạng Tháng Mười" trong nội bộ Giáo Hội Công Giáo. Phe bảo thủ của cố giáo hoàng PIO XII và Spellman đã bị lật đổ. Cho nên các sản phẩm của tên giáo hoàng bạo chúa Mafia Pio XII và Spellman là anh em Kennedy và anh em Ngô đình Dịệm đều bị thủ tiêu trong tháng 11- 1963. Giáo Hoàng Jean Paul II bề ngoài là kẻ đứng đầu Hội Thánh Công Giáo, nhưng thực sự y chỉ là một gã tài xế "lái xe theo kính chiếu hậu".

Ban tham mưu giấu mặt (faceless) điều khiển Giáo Hoàng và Giáo hội Công Giáo hiện nay là những Christkillers chủ tâm tiêu diệt Công Giáo theo mô hình từ trong ra ngoài và từ đỉnh đổ xuống. Đến một thời điểm thích hợp không xa, nhóm người minh triết cứu tinh nhân loại sẽ hướng dẫn Giáo Hoàng lái chiếc xe giáo hội Công Giáo La Mã lao xuống vực thẳm tự hủy. Đó là Ngày Tận Thế của Giáo Hội Tội Ác Công Giáo La Mã. Công Giáo La Mã hiện đang nằm trên miệng hố diệt vong.

Trong thế kỷ 21, hai tôn giáo lớn nhất của hệ thống Thiên Chúa Giáo là Công Giáo và Hồi Giáo nếu không bị tiêu diệt hoàn toàn thì cũng sẽ không còn là những lực lượng có đủ khả năng khuynh đảo tình hình thế giới như trước nữa. Đó là một thực tế không thể đảo ngược. Nhân loại nhờ đó sẽ có được một cuộc sống mới thanh bình thịnh trị trong sự hòa hợp hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau để cùng xây dựng và phát triển văn minh hạnh phúc cho toàn thế giới, không phân biệt màu da, giai cấp, văn hóa... Nhân loại đã đến lúc tỉnh giấc ngủ mê để dành lại vườn địa đàng của mình từ tay những tên Thiên Chúa độc ác và giả tạo như Elohim,Jehovah, Allah của cái gọi là Kinh Thánh Cựu Ước.

NHỮNGTRANG KHÁC CỦA KHOA HỌC THẾ KỶ 21

CÁC BÀI ĐĂNG TRƯỚC

Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2013

CÔNG GIÁO HUYỀN THOẠI VÀ TỘI ÁC

CÔNG GIÁO HUYỀN THOAI VÀ TỘI ÁC

CÔNG GIÁO HUYỀN THOẠI VÀ TỘI ÁC

Con người phải dùng lý trí nhận định đức tin, không qua mặc khải mù quáng

Công Giáo Huyền Thoại và Tội Ác

Lời giới thiệu của tác giả

Dominic Nguyễn Chấn

(Charlie Nguyễn)

Công Giáo La Mã là một đặc sản văn hóa phi nhân tính (inhuman) của Tây Phương, bắt nguồn sâu xa từ cái nôi tối cổ của nền văn minh du mục Ả Rập là Babylon. Những huyền thoại làm đảo lộn lịch sử thế giới và gieo tai họa khủng khiếp cho cả loài người như những huyền thoại về Vườn Địa Đàng (Garden of Eden) huyền thoại con người được Thượng Đế tạo ra từ đất sét (clay), huyền thoại về Chúa Cứu Thế Ki Tô (Christos / Messiah / Savior) đều xuất phát từ Babylon. Thậm chí phần lớn những nghi lễ tại các nhà thờ Công Giáo ngày nay như các giám mục khi làm lễ thường đội nón hình đầu cá (fish-head mitre), Bánh Thánh hình tròn (round-shaped Host), Mặt Nhật để dâng Mình Thánh Chúa mạ vàng (Gilded Montrance) trông giống như mặt trời tỏa ánh sáng (sunburst design), ảnh tượng Đức Mẹ bế Chúa Cứu Thế hài đồng v.v... Tất cả đều là những sản phẩm văn hóa du mục của Babylon, đặc biệt là đạo thờ thần Mặt Trời, mà những Tổ Phụ Sáng Lập đã tiếp thu gần như trọn vẹn để lập ra đạo Công Giáo La Mã như ta thấy hiện nay.

Trong thế giới sơ khai có rất nhiều dân tộc thờ Thần Cá. Người Babylon tin Chúa Cứu Thế là Cá. Trong Kinh Thánh cổ Talmud của đạo Do Thái, danh từ Chúa Cứu Thế (Messiah) còn được gọi là DAG có nghĩa là cá . Các dân tộc Bắc Âu từ thuở xa xưa thờ thần Cá Frigga và họ kiêng thịt chỉ ăn cá vào ngày thứ sáu. Từ đó, danh từ trong Anh ngữ của dân Anglo-Saxon (gốc Bắc Âu) mới có chữ Friday là ngày Thứ Sáu. Trong Đạo Hindu của Ấn Độ thì Thượng đế Vishnu là vị thần nửa người nửa cá (half fish - half man).

Người Hy Lạp đặt ra tên JESUS bằng cách ghép chữ đầu của tiếng ICHTBUS, nghĩa là Cá (Fish) và các chữ đầu của cụm từ EOU UIOS SOTER, nghĩa là Con của Đức Chúa Trời (Son of God) để tạo thành tên IESOUS (hàm ý JESUS là Thần Cá Cứu Thế Con của Thượng Đế). Điều này cho thấy ngay tên của JESUS cũng là một sản phẩm thần thoạị có nguồn gốc tôn giáo của thời kỳ bán khai của nhân loại. Nguời Anh và Pháp phiên âm danh từ Hy Lạp IESOUS thành JESUS. (Xin đọc Deceptions and Myths of the Bible - Lloyd M. Graham p. 326- 327 ). Người Hoa phiên âm JESUS thành GIA-TÔ. Trong sách Kinh Nguyện Toàn Niên của hai giáo phận Hà Nội và Bùi Chu có Kinh Cầu Hồn Hán tự có câu : "Thần Chúa Gia Tô thục tội thi ân chi đại", có nghĩa là: Chúa Giêxu chuộc tội và ban ơn rất lớn.

Đặc biệt nhất là nghi lễ "Rước Mình Thánh Chúa", một nghi lễ thiêng liêng và quan trọng số một của đạo Công Giáo, chính là nghi lễ rập khuôn đúng theo tục lệ man rợ của người Babylon thời xưa làm lễ tế thần bằng cách bắt những cô gái trinh hoặc những trẻ thơ trong đám những người nô lệ cô thế để làm vật hy sinh. Các nạn nhân vô tội bị nướng chín như heo quay để tế thần. Sau đó các tu sĩ và giáo dân đạo thờ thần Baal vui vẻ chia nhau ăn thịt nạn nhân trong tiếng trống và phèng la inh ỏi. Do đó, ngôn ngữ Tây phương phát sinh ra danh từ CANNI-BAL để gọi những tu sĩ của đạo thờ thần Baal (priests of Baal), tức thần Molech, cha của Chúa Cứu Thế Tammuz (Tammuz, the Savior), mà dân Babylon tôn thờ cách đây khoảng mười ngàn năm.

Cũng như tại các nhà thờ Công Giáo ngày nay, các linh mục làm lễ MISA , có nghĩa là Bữa Tiệc tế thần Jehovah (Đức Chúa Cha) bằng thân xác của Đức Chúa Con (Jesus). Sau khi Chúa Cha ăn thịt Chúa Con xong thì đến phiên các cha cố và giáo dân cùng chia nhau ăn bánh thánh và uống ruợu nho mà họ gọi là "Rước Lễ" hoặc chịu "Phép Mình Thánh Chúa" (Corpus Christi). Giáo lý Công Giáo buộc mọi tín đồ phải tin rằng lúc rước lễ là lúc họ đang ăn thịt thật và uống máu thật của Jesus đã chết thối cách đây gần hai ngàn năm! Đó là nghi lễ tôn giáo trọng đại của những người tự hào là "văn minh" đang sống trong một nước "mọi rợ"phương Đông là nước Việt nam !. Nhờ phúc đức của ông bà tổ tiên nhân hậu để lại nên dân tộc Việt Nam chỉ có khoảng 8% dân số hồ hởi phấn khởi chạy theo nền văn minh khoái khẩu món thịt người (Cannibal). Số còn lại 92% dân số Việt Nam may mắn đều là dân "mọi rợ" (theo nghĩa "mọi rợ" của sách kinh Công Giáo dưới cặp mắt cú vọ của các cố đạo thừa sai cũng như dưới cặp mắt mơ huyền của các cố đạo bản xứ mất gốc.)

Theo sử gia Hislop thì cái ý nghĩ quái đản về sự ăn thịt Chúa của người Công Giáo là học đòi tục lệ của tà giáo mọi rợ ăn thịt người. Các tu sĩ tà giáo bị buộc phải ăn thịt của mỗi người bị hy sinh một chút. Vì vậy danh từ "Canah-Baal" có nghĩa là tu sĩ đạo thờ Thiên Chúa Baal. Danh từ này trở thành căn ngữ cho tiếng Anh "Cannibal" có nghĩa là kẻ ăn thịt đồng loại. (The idea of eating the flesh of God was of cannibalistic inception. Since heathen priests ate a portion of all sacrifices, in case of human sacrifices, priests of Baal were required to eat human flesh. Thus Cannah-Baal, that is priests of Baal, has provided the basis for our modern word Cannibal that means the person who eats the flesh of other human beings. - The Two Babylon by Hislop. p.232).

Sử gia trứ danh Duran, người Pháp, với những bộ sử lớn lao của ông đã được dịch ra rất nhìều thứ tiếng trên thế giới đã viết : "Niềm tin về sự biến thể của bánh và ruợu thành máu và thịt của Chúa Jesus trong nghi lễ Công Giáo La Mã là một trong những nghi lễ cổ xưa nhất của những tôn giáo thời ăn lông ở lỗ" (The belief in transubstantiation as practiced in the Roman Catholic Church is one of the oldest ceremonies of primitive religion. - The Story of Civilization : The Reformation, p. 749).

Những chuyện hết sức kinh dị dã man khiến không ai ngờ có thể có trong đạo Công Giáo mà nhiều người đã lầm tưởng là đạo của người văn minh. Càng tìm hiểu về đạo Công Giáo, mọi người đều sẽ phải sửng sốt để nhận ra rằng Công Giáo La Mã thực sự chỉ là đạo của những linh hồn bán khai. Tôi thiết nghĩ những người Công Giáo Việt Nam hải ngoại có trình độ Anh ngữ cao nên tìm đọc cuốn sách nghiên cứu rất công phu của Hội Nghiên Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow (Ralph Woodroow Evangelistic Association P.O. Box 124 Riverside CA 92502 ) là tác phẩm BABYLON MYSTERY RELIGION - ANCIENT AND MODERN, xuất bản lần đầu năm 1966 và tái bản năm 1990 với 350.000 ấn bản. Danh từ "Tôn giáo của Huyền thoại Babylon" chính là tên gọi của hội này áp dụng cho Giáo Hội Công Giáo La Mã (Roman Catholic Church).

Trong Lời Giới Thiệu của Tiến sĩ Alberto Rivera, cựu linh mục Dòng Tên, nhân dịp nhà xuất bản Chic Publications ở California cho ra mắt tác phẩm The Secret History of The Jesuits được dịch ra từ tác phẩm nguyên bản tiếng Pháp của linh mục Dòng Tên Edmond Paris năm 1975, TS Rivera đã viết:"Các tổ phụ sáng lập đạo Công Giáo đã tuân thủ hầu như nguyên vẹn hệ thống tôn giáo cổ của Babylon, pha trộn thêm vào đó là khoa thần học Do Thái Giáo và khoa triết lý của Hy Lạp. Tất cả những thứ đó đã dọn đường cho sự hình thành guồng máy Công Giáo La Mã. Quyền lực của Giáo Hoàng và của các định chế Công Giáo không những chỉ phá hoại sinh mạng thể xác con người như các tu sĩ dòng Đa Minh đã làm qua hệ thống Tòa án Dị giáo, mà còn len lỏi xâm nhập vào mọi lãnh vực của đời sống nhân loại. . . . bằng cách áp đặt các chế độ độc tài và làm suy yếu các nền dân chủ như nền dân chủ của Hoa Kỳ. Hỡi những người Công Giáo (Hoa Kỳ và Canada), tôi viết vì sự cứu rỗi của các người."

(The Early Fathers observed most of the ancient Babylonian system plus Jewish theology and Greek philosophy. They paved the way for the Roman Catholic machine that was to come into existence. . . The power of pope and the Roman Catholic institution, not by just destroying the physical life of the people as the Dominican priests were doing through the Inquisition, but by infiltration and penetration into every sector of life . . , by setting up dictatorships and weakening democracies such as the USA.... Yours, for the Savation of the Roman Catholic people. Dr. Alberto Rivera, Ex-Jesuit Priest. - The Secret History of the Jesuits - Dr. Rivera's Introduction).

Sử gia Hoa Kỳ Lloyd M. Graham đã bỏ công nghiên cứu rất công phu những tội ác của Công Giáo La Mã. Truớc hết là tội lừa bịp và mê hoặc dân chúng bằng những huyền thoại của Babylon và Syria. Ông tố cáo tội ăn cắp trắng trợn của tà giáo ác ôn này ngay trên trang bìa tác phẩm trứ danh của ông : Deceptions and Myths of The Bible (484 trang, A Citadel Press Book, 1991) : " Kinh Thánh chẳng phải là Lời Chúa mà là những thứ ăn cắp của ngoại giáo . Huyền thoại Vườn Địa Đàng với Adam Evà ăn cắp từ kho Babylon. Các huyền thoại như Trận Đại Hồng Thủy, tàu No-e, Isaac, Salomon, Samson và thậm chí ngay cả tên thánh Mai-sen cũng đều là đồ ăn cắp từ thần thoại của Syria."(..The Bible is not the word of God but a steal from pagan sources. Its Eden, including Adam and Eve, were taken from the Babylonian account, its Flood and Deluge ...its Ark and Ararat their equivalents in a score of of Deluge myths, even the names of Noah's sonsare copies, so also were Isaac's sacrifice, Salomon's judgement and Samson 's pillar act. Moses is fashioned after the Syrian Mises.)

Công Giáo La Mã là tên sát nhân vô địch trong lịch sử nhân loại. Từ ngày bạo chúa La Mã Constantine sáng lập ra nó năm 325 đến nay nó đã giết hại trên hai trăm triệu người ( Wars, tyrany and oppression of Christian nations since the days of Constantine have caused the death of more than 200.000.000 people - p.463) . Về phương diện văn minh và văn hóa, Công Giáo La Mã đi tới đâu là hủy diệt toàn bộ nền văn minh, văn hóa của người ta đến đó. Nó đã hủy diệt không còn dấu tích các nền văn hóa của các dân tộc Da Đỏ ở châu Mỹ LaTinh. Vào thế kỷ 5 nó đã tiêu hủy nền văn minh vô cùng quý giá của Hy Lạp, tổng giám mục Chrysotom khoe : "Mọi dấu vết của nền triết học và văn chương của thế giới cổ đã bị xóa sạch khỏi mặt đất". ( By the fifth century the destructionof the ancient world has vanished from the face of the earth - p. 281).

Công Giáo là tên thủ phạm đã làm cho nền văn minh nhân loại bị thụt lùi 15 thế kỷ. "Trong 15 thế kỷ đó dân Công Giáo không biết trái đất tròn. Trái lại, dân Hy Lạp từ thế kỷ 6 TCN đã được Pythagore dạy rằng trái đất chẳng những tròn mà còn quay quanh mặt trời. Vào thế kỷ 3 TCN Aristarchus đã phác họa lý thuyết về Thái Dương Hệ tương tự như phát minh vĩ đại của Copernicus thế kỷ 19. Cũng vào thế kỷ 3 TCN , Erathostine đã đo được chu vi của trái đất." (This resulted in fifteen hundred years of darkness, in which the Christian people did not know the earth is round. And yet as the sixth century B, C., Pythagoras taught that the earth was not only round but going around the sun. In third century B.C., Aristarchus outlined the true heliocentric theory developed as a great discovery nineteenth century later by Copenicus. In the third century B. C. Erathostene measured the circumsference of the earth - p. 448)

Giáo lý Công Giáo dạy rằng : "Máu của Jesus đã rửa sạch tội lỗi của thế gian . Thử hỏi kẻ nào là thủ phạm đã cuốn sạch sự thiện lành của thế giới này? Đó là tà đạo Công Giáo chẳng những lấy sự ngu dốt để xây dựng giáo hội mà còn dùng đến cả những thủ đoạn bất lương, sự ác độc và phương tiện chíến tranh nữa" (According to their teaching: The blood of Christ washed away the sins of the world. What it actually washed away the sanity of the world ? it takes more than ignorance to found a religion, it takes dishonesty, cruelty and war as well -p.447)

"Người Công Giáo tin rằng "thánh" Phê Rô và các giáo hoàng đứng đầu Hội Thánh có quyền buộc hay tha tội cho mọi người trên thế gian. Chẵng lẽ những bậc thánh hiền có trước Jesus như Pythagoras, Plato, Socrates và Đức Phật Thích Ca cũng cần phải tùy thuộc vào cái quyền buộc tội hay tha tội đó của gã Do Thái đánh cá ngu dốt hay sao?" (Catholics are indeed credulous but they cannot be so credulous as to believe that pre-Christian sages like Pythagoras, Plato, Socsates and Buddha require this ignorant Jewish fisherman to bind and loose their souls. - p. 438)

"Bất cứ ai tin rằng bánh và ruợu nho có thể biến thể thành thịt và máu thật của Jesus để gọi là "Bánh Hằng Sống" bởi mấy câu nói lảm nhảm của một thằng cố đạo ngu dốt thì hãy thử cho một chút arsenic vào bánh và ruợu đó xem Mình Thánh Chúa có thành một liều thuốc độc giết người không ?. Cái lề thói ngu ngốc của tín đồ Công Giáo ăn thịt uống máu Jesus với hy vọng sẽ hấp thụ được những đức tính giống như Jesus là cái tỳ vết nghi lễ mọi rợ của những kẻ chuyên ăn thịt sống mê tín tin tưởng rằng cứ ăn thịt uống máu của ai thì sẽ có những đặc tính tốt của người đó như sức mạnh , lòng can đảm v.v..." (Anyone who think that ordinary bread and wine are actually transustantiated into the flesh and blood of Christ by the numbled words of an ignorant priest should put a little arsenic in them first. He will finnd then that the flesh and blood of Christ are deadly poison. The ignoraant Christian custom of eating and drinking commonplace bread and wine in the hope of gaining some Christlike virtue is but a relic of the savage rite of omophagia - the eating and dringking another person' s flesh and blood to acquire his qualities , strength, courage and so on. - 335).

Công Giáo La Mã không phải là một tôn giáo mà là một Đế Quốc. Phải gọi nó là Đế Quốc Công Giáo vì nó chiếm toàn Âu Châu và Bắc Phi làm lãnh thổ của nó và đế quốc Công Giáo chẳng khởi đầu từ Jesus mà thật sự khởi đầu từ tên Bạo Chúa La Mã Constantine. Người Công Giáo coi Constantine là "người của Chúa" vì y ngưỡng mộ cây thập ác với khẩu hiệu " Dưới dấu hiệu Thánh Giá ta sẽ chinh phục thế giới" .Tên bạo chúa này đã chiếm toàn Âu Châu cho Công Giáo do Jesus dạy y làm như vậy hay sao ?. Sử gia Gibbon viết chí lý như sau : "Công Giáo La Mã dùng bạo lực để bảo vệ đế quốc do nó thủ đắc bằng sự lừa dối "( p. 454).

Người Công Giáo Ái nhĩ Lan ngày nay đang chiến đấu chống Anh quốc để dành độc lập quốc gia và để bảo vệ niềm tin Công Giáo, nhưng họ quên rằng chính Giáo hoàng Adrian IV đã bán đứng đất nước Ái nhĩ Lan cho Anh Quốc vào thế kỷ 12. Ngày nay văn khố Vatican còn lưu trữ bức thư của GH Adrian IV gửi vua Anh Henry II như sau : "Không còn nghi ngờ gì nữa, như Ngài đã biết, Ái Nhĩ Lan và các đảo của nó đều đã thuộc Giáo Hội La Mã vì dân chúng đã tiếp nhận đức tin Công Giáo. Nếu Ngài muốn chiếm đảo quốc này để khai thác, áp đặt luật pháp và bắt mọi người phải nộp thuế cho Tòa Thánh, tôi (giáo hoàng) sẵn sàng chuyển nhượng đảo quốc đó cho Ngài". (It is not doubted and you know it, that Ireland and all its islands which have recieved the Faith belong to the Church of Rome. If you wish to enter that Island to drive vice of it , to cause law to be obeyed and Saint Peter's pence to be paid by every house, it will please us to assign it to you. -page 470).

Mấy chục năm sau, vào cuối thế kỷ 12, Giáo Hoàng Innocent III xúi giục vua Pháp tấn công Anh quốc vì ở Anh có phong trào chống Công Giáo có thể gây nguy hại đến "quyền lợi thiêng liêng" (the divine right) của Tòa Thánh. (p. 469).

Giáo Sử Công Giáo là Huyết Lệ Sử của nhân loại. Đoàn quân Thập Tự của Công Giáo La Mã tàn bạo dã man không thể tưởng tượng nổi. Trong cuộc thánh chiến với Hồi giáo tại Jerusalem nó đã giết hại sáu chục ngàn trẻ em. Bọn chúng nhân danh Chúa Ki Tô phạm những tội ác làm rợn tóc gáy của mọi người. Xin hãy nghe Thập Tự Quân viết thư về gia đình để khoe thành tích tội ác của chúng : "Ở nhà có biết chúng tôi đối xử với kẻ thù của chúng ta như thế nào ở Jerusalem không? Ở cổng thành Solomon và tại Đền Thánh Chúa, đoàn kỵ binh của chúng tôi phải lội qua những vũng máu của địch lên tới đầu gối của đoàn ngựa". (If you would know how we treated our ennemies at Jerusalem know that in the portico of Salomon and in the Temple, our men rode through the unclean blood of the Saracenes which came up to the knees of our horses. - 462)

Giáo Hội Công Giáo La Mã chẳng những là một tổ chức tội ác vô tiền khoáng hậu với qui mô rộng lớn khắp thế giới mà nó còn là một trung tâm sản xuất đồ giả lớn nhất thế giới để thu lợi. Đồ giả phổ biến nhất của Tòa Thánh là các "Thánh Tích" (relics). Chúng lấy răng chó con hay răng súc vật đem bán và nói đó là những chiếc răng sữa của Chúa Jesus, lấy mảnh da loài vật để làm giả miếng da cắt được từ lỗ rốn của Ngôi Hai Thiên Chúa hoặc là miếng da cắt từ đầu chim của Ngài khi cha mẹ đưa Ngài đến Đền Thánh chịu phép cắt bì (The Circumcision). Chúa chỉ chịu phép cắt bì một lần duy nhất nhưng Tòa Thánh có tới ba miếng da quy đầu của Ngài. Chúa cũng chỉ bị đóng đinh trên thập giá một lần duy nhất với một cây thập giá duy nhất làm bằng hai khúc gỗ và ba cái đinh, nhưng tổng số gỗ và đinh mà Vatican đem bán làm bằng cớ về "Ơn Cứu Chuộc thiêng liêng vô cùng của Chúa nếu thâu gom lại có thể đóng được một chiếc tàu lớn để vượt Thái Bình Dương."

Đại úy trưởng toán hành hình Jesus trên đồi Golgotha tên là Longinus, cũng là một tín đồ bí mật của Jesus, đã không đập gẫy chân Jesus như y đã đập gẫy chân hai kẻ bị đóng đinh cùng một lượt với Jesus. Nhờ vậy Jesus đã thoát chết vì được cứu sống sau đó. Đại úy Longinus cũng chỉ quệt nhẹ vào cạnh sườn Jesus để che mắt bọn lính dưới quyền nên chỉ tạo cho Jesus một vết trầy nhẹ mà thôi. Tiếng Hy Lạp trong bản chính Kinh Thánh Tân Ước là NYSSEIN, có nghĩa là vết trầy nhẹ (a light scratch). Vào thế kỷ 5, Jerôme dịch "kinh thánh" từ nguyên bản Hy Lạp sang tiếng La Tinh. Tên lưu manh Jerôme đã dịch NYSSEIN thành APERIRE, có nghĩa là "vết thương mở toang" (opened wound) làm người đoc tưởng lầm vết trầy nhẹ trên cạnh sườn Jesus là một "coup de grâce". (Những não bộ đậu hũ của Hội Đồng Giám Mục và của giới trí thức Công Giáo Việt Nam đều tin rằng Nyssein là "Nhát Đâm Dứt Điểm" ? ? ! !). Đây là một trong những thủ đoạn lừa dối trắng trợn lớn nhất trong lịch sử nhân loại được Vatican dùng làm nền tảng cho giáo lý Cứu Chuộc Dỏm của Jesus. Bản dịch Kinh Thánh lừa dối của Jerôme được gọi là Vulgate (Kinh Thánh Phổ Thông) là bản văn Kinh Thánh chính thức của Giáo Hội Công Giáo. Toàn bộ giáo lý của cái gọi là "Đạo Thánh Đức Chúa Trời" hoàn toàn đặt trên căn bản dối trá bịp bợm 100% trong âm mưu vô cùng hiểm độc của tập đoàn không lương thiện quốc tế là Giáo Hội Công Giáo La Mã, họ là kẻ thù nguy hiểm số một của dân tộc Việt Nam và của cả loài người chúng ta!

Longinus chỉ giả vờ "đâm" Jesus bằng một cái giáo duy nhất, nhưng Vatican có tới ba cái giáo thánh tích và cả ba thánh tích này đều được Tòa Thánh xác nhận là thứ thiệt của một cái giáo của Longinus! (...Enough nail and wood from the cross to build a ship of the line. There are three relics of one spear with it captain Longinus pierced Jesus'side. - page 471 Deception and Myth / Xin đọc thêm "The Side Wound and the Miracle Drink" trong tác phẩm để đời "The Jesus Conspiracy - The Turin Shroud & The Truth about the Resurrection" của Holger Kersten & Elma R. Gruber, Reprinted in USA by Element, pages 249 - 265).

Vì tội ác và tính lươn lẹo siêu quần bạt chúng của Giáo Hội Công Giáo vượt quá sức chịu đựng của những người Ki Tô Giáo nên từ đó có nhiều quốc gia Ki Tô đã chống lại Tòa Thánh để lập thành những giáo hội riêng biệt nhằm mục đích tự giải thoát giáo hội và quốc gia của họ thoát vòng kìm kẹp ngạo ngược của quỷ sứ ở Vatican. Một trong những Phong Trào Chống Đối lớn nhất là cái mà người Việt Nam chúng ta sai lầm gọi là đạo TIN LÀNH. Thực sự trên thế giới này chưa từng có một tôn giáo nào tự xưng tên là đạo Tin Lành (Religion of Good News ? ! ). Tự điển Anh ngữ chỉ có một chữ PROTESTANTISM mà thôi. Danh từ này có nghĩa đơn giản là "Phong Trào Chống Đối Giáo Hội Công Giáo La Mã", Công Giáo gọi họ là Đạo Thệ Phản, chứ chẳng bao giờ có cái nghĩa quái đản là đạo Tin Lành[*]. Các giáo phái Tin Lành cũng thuộc hệ thống Ki Tô Giáo. "Good News" là danh từ được dịch từ tiếng Hy Lạp "Gospel" tức Sách Phúc Âm- thực chất là Bad News, very very bad! So với Công Giáo là Chúa Sơn Lâm thì Tin Lành là quan đại thần Linh Cẩu . Xin đề nghị đồng bào chúng ta nên vứt bỏ danh từ "Tin Lành" vì dùng danh từ này để dịch chữ tiếng Anh "Protestanism" là hoàn toàn sai lầm và vô tình nhục mạ ngôn ngữ Việt Nam.

Phong trào Protestanism do tu sĩ Công Giáo Luther sáng lập, nhưng trước đó nhiều thế kỷ đã có rất nhiều phong trào nổi lên chống Giáo hội Công Giáo. Hầu hết các phong trào đó đều đã bị Vatican dập tắt trong biển máu. Sử gia Mỹ Lloyd M. Graham viết: "Không phải chỉ đợi đến thời Luther mới có phong trào Protestanism mà trước đó nhiều thế kỷ đã từng có nhiều phong trào như vậy nổi lên chống lại các tội ác và sự thối nát của Công Giáo La Mã. Thằng quỷ Phêrô làm tổn thương và lăng nhục Âu Châu... Chúng ta không bao giờ quên biết bao nhiêu triệu người đã bị tàn sát bởi những Tòa Án Dị Giáo, nhưng cũng đừng quên rằng những tội ác đó vẫn tồn tại vì Vatican tái xác nhận trong thế kỷ của chúng ta dưới triều đại GH Leo XIII : "Hình phạt tử hình là những biện pháp rất cần thiết và hữu hiệu giúp cho Giáo Hội đạt được những mục tiêu của mình để chống lại các cuộc bạo loạn chống Giáo Hội hoặc các mưu toan phá vỡ sự thống nhất của hệ thống tu sĩ Công Giáo".

(Protestanism sprang not from Luther exclusively but from centuries of protestation against the crime and corruption of the Catholic Church, SATAN PETER had outraged all Europe. . . . And let us not forget the known millions the Holy Inquisition destroyed. A thing of the past, you say, yes, but not the authority, it still exists and was reaffirmed in our own century, under Leo XIII: "The death sentence is a necessary and efficacious for the Church to attain its end when rebels act against it and disturbers of the ecclesastic unity" - p. 468).

Công Giáo La Mã là một "giáo hội" tham lam quyền lực và tiền của vật chất vô đáy. Tội ác của nó cao ngất trời xanh như Hy Mã Lạp Sơn. Nhưng tội ác quan trọng hơn cả là nó cứ muốn dìm nhân loại phải chìm sâu mãi trong bóng tối của sự ngu dốt. Điều mà mọi người cần nhất là sự hiểu biết, kiến thức khoa học và quyền năng chế ngự thiên nhiên do kiến thức mang lại. Nhưng rõ ràng đó là những thứ mà giáo hội Công Giáo chống đối, vì nó biết rõ rằng : SỰ NGU DỐT LÀ MẸ CỦA LÒNG SÙNG ĐẠO VÀ SỰ ỦNG HỘ GIÁO HỘI CỦA NÓ (Ignorance is the mother of devotion and the supporter of the Church. - p.458).

Sử sách của văn minh nhân lọai viết về sự ác độc man rợ của tà đạo Công Giáo La Mã đầy ngập cả thư viện Hoa Kỳ khiến chúng ta phát ngộp không thể kể ra cho xiết được . Vì vậy tôi chỉ xin trích ra một số những nhận định tiêu biểu như trên mà thôi. Tôi ước mong giới trí thức Việt Nam nên chọn lựa để dịch sang Việt ngữ một số những tác phẩm giá trị để cứu đồng bào ta khỏi sa vào bóng tối nguy hiểm của tà đạo Công Giáo. Tà đạo này là một thứ ung nhọt nưng mủ từ lâu trên thân xác Mẹ Việt Nam của chúng ta. Gặp khi lạ gió trở trời, cái ung nhọt Công Giáo La Mã lại một phen hành hạ thân xác Mẹ Việt Nam bằng những cơn co giật đau đớn khiến nhiều phen suýt phải vong mạng. Thiết tưởng nay đã đến lúc toàn dân Việt Nam hãy rán chịu đau một lần mà tìm mọi cách hợp lý trị dứt cái ung nhọt mưng mủ này để các thế hệ tương lai thoát khỏi những tai ách truyền thống của nó . Hơn nữa, lòng từ bi bao dung của dân tộc đối với những kẻ vô minh ác đức và sức chịu đựng của đồng bào trước những tội ác tày trời của nó cũng chỉ có giới hạn.

Trong những thế kỷ trước, người Á Đông đã coi Công Giáo là một thứ cỏ dại và họ đã dùng bạo lực để tiêu diệt nó, Cùng một cách nhìn đó về đạo Công Giáo nhưng người Nhật đã thành công, còn ở Việt Nam thì việc dùng bạo lực diệt đạo lại thất bại. Tạp chí National Geographic Vol.182, No. 5 ra ngày 18 - 11- 1992 có bài "Portugal's sea road to the East" p. 56- 93, cho biết : Vào năm 1638, tại Nagasaki (Nhật Bản) có khoảng 100,000 giáo dân Công Giáo làm nội ứng cho quân Bồ Đào Nha tấn công xâm chiếm Nhật Bản . Triều đình Nhật cử tướng Iemitsu sang đại quân tới Nagazaki để "Bình Tây Sát Tả". Kết quả là bọn xâm lược Bồ Đào Nha bị đánh bật khỏi lãnh thổ Nhật Bản. Tất cả cha cố thừa sai bị bắt đều bị đóng đinh vào thập giá với những chiếc áo dòng của loài quạ, chứ chúng không bị lột trần truồng nhục nhã như Chúa của họ trên đồi Golgotha. Còn đạo quân thứ năm của địch là tập đoàn giáo dân Công Giáo ở Nagasaki đã bị diệt gọn 37.000 người. Một số giáo dân sống sót nhẩy lên tàu Bồ Đào Nha trốn sang Hội An Việt Nam. Sau biến cố quyết liệt này, nước Nhật sạch bóng thù trong giặc ngoài và tiến lên địa vị siêu cường kinh tế văn hóa như ngày nay khiến cho cả thế giới phải kính phục.

Cũng cùng một hoàn cảnh và cùng một cách nhìn về đạo Công Giáo như người Nhật, các vua quan Việt Nam đã thất bại trong việc cấm đạo, có lẽ vì bản chất của người Việt Nam vừa quá hiền lành vừa chịu ảnh hưởng của Tam Giáo Đồng Nguyên và chính quyền thời đó lại thiếu cương quyết. Một phần lý do đưa đến thất bại là sự sai lầm của Gia Long đã quá tin dùng Bá Đa Lộc và một đoàn tùy tùng đông đảo của y nên đã tạo cơ hội cho tà đạo Tây dương này có đủ điều kiện bắt rễ sâu vào đất nước ta.

Linh mục Phan Phát Huồn, tác giả cuốn Việt Nam Giáo Sử, nơi trang 20, đã tự hào viết về sự sống còn của Công Giáo Việt Nam như sau :"Máu đã nhuộm đỏ đất nước Việt Nam yêu quý làm cho đất phì nhiêu tốt tươi. Lấy võ lực đàn áp Công Giáo để tiêu diệt người Công Giáo thì chẳng những người Công Giáo không bị tiêu diệt mà còn sinh sản đông đúc thêm". Đúng vậy, tà đạo Công Giáo cũng như cỏ dại, nếu chúng ta lấy gậy để đập cỏ dại thì cỏ dại chẳng những không chết mà chỉ làm cho bông cỏ dại văng xa tứ tung và ngày càng lan rộng ra thêm. Cũng như chúng ta lấy súng đại bác bắn vào bóng tối cũng không thể nào xua đuổi được nó. Chỉ có ánh sáng của sự hiểu biết mới xua đuổi được bóng tối Công Giáo La Mã một cách hoàn toàn và vĩnh viễn ra khỏi bờ cõi Việt Nam. Nếu ta học bài học giáo sử của Phan Phát Huồn mà lấy máu tử đạo để nhuộm đỏ đất nước Việt Nam yêu quý thì chỉ làm cho đất nước thêm ô nhiễm mà thôi!.

Dưới con mắt của các sử gia và học giả Tây phương thì Công Giáo La Mã là tôn giáo thứ hai của các huyền thoại man rợ thuộc một giáo hội suy tàn (a fallen Chruch) của Babylon . Vậy chúng ta cần nên biết Babylon ở đâu và nó đã làm những chuyện gì ghê gớm vậy ?. Sau đây là vài nét sơ lược về lịch sử của cái xứ Ả Rập - Do Thái độc đáo này:

Toàn vùng Babylon đã bị chôn vùi dưới những lớp cát sa mạc sau một trận đại hồng thủy gây ra do sự đổi dòng đột ngột của con sông Euphrate vào thế kỷ 4 TCN. Do đó, trong gần 23 thế kỷ, nhân loại đã không biết Babylon là thủy tổ của các tôn giáo xây dựng giáo lý trên các huyền thoại của Babylon gồm có Do Thái Giáo, Ki Tô Giáo và Hồi giáo, gọi chung là Độc Thần Giáo (Monotheism/One-God Religions). Các đạo Độc Thần còn được gọi là Thiên Chúa Giáo vì tất cả đều thờ chung Một Thiên Chúa được mô tả trong Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái (God of the Bible). Các đạo Độc Thần đều có chung một ông tổ là nhân vật thần thoại Abraham, cho nên các đạo này còn được gọi là các đạo của Abraham (Abrahamic Religions).

Từ khi lập quốc Do Thái, cháu nội của Abraham là Jacob đã đặt tên cho tân quốc gia Do Thái là Isra-El để vinh danh Thiên Chúa El (Elohim) của họ và họ đã tôn thờ vị Thiên Chúa này qua biểu tượng một con bò đực bằng vàng (the gold molten Bull). Jacob tuyên bố đã được gặp mặt đối mặt với vị Thiên Chúa có hình tượng con bò này (Because I have seen El face to face - Gennessis 32 : 30- 31 ). Khoảng năm 1250 TCN, Thánh Maisen (Moses) lập ra đạo Do Thái và đổi tên Thiên Chúa El thành Jehovah, theo nguyên ngữ Hebrew JEHOVAH có nghĩa là "Thiên Chúa Của Các Tổ Phụ" (God of Fathers).

Như vậy, Thiên Chúa Jehovah của Mai-sen cũng chính là Thiên Chúa El của cha con Abraham, chỉ khác một điều là Đạo Do Thái sau này không còn dùng tượng bò làm tượng Chúa nữa mà thôi. Thiên Chúa Jehovah sau này trở thành Đức Chúa Cha, tức Ngôi Thứ Nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi theo giáo lý của Đạo Ki Tô (Christian God = Trinity God) và Thiên Chúa Jehovah cũng là Thiên Chúa Allah của đạo Hồi. Nói tóm lại, các đạo thờ Thiên Chúa đều cùng một nguồn gốc từ đạo thờ Thần Bò El của Abraham mà ra. Bà Karen Amstrong, nguyên nữ tu Công Giáo, tốt nghiệp Đại học Oxford, hiện là giáo sư Đại học Leo Baek Anh Quốc, tác giả cuốn sách bán chạy nhất (best seller) A History of God, 460 trang, The NY Times xuất bản 1993. Tác giả đã trình bày hết sức rõ ràng đầy đủ về toàn hệ thống các đạo thờ Chúa và đây là tài liệu tham khảo chính yếu để viết về những vấn đề liên quan đến Độc Thần Giáo trong tập sách này.

Tuy các đạo Độc Thần đều phát sinh từ một nguồn gốc ở Babylon, có chung một tổ phụ lập đạo Abraham và thờ cùng một Chúa được mô tả trong kinh thánh Cựu ước Do Thái (God of the Bible) nhưng họ luôn luôn coi nhau như những kẻ thù không đội trời chung!.Qua nhiều thế kỷ, nhân loại đã không biết nguồn gốc sâu xa nguyên thủy của các đạo thờ Chúa là từ vùng Babylon. Phải đợi đến cuối thế kỷ 19, do những sự tình cờ, các nhà khảo cổ thế giới đã phát giác đầy đủ bằng chứng cho những sự thật lịch sử này nhờ những di vật khai quật được từ vùng sa mạc cách thủ đô Baghdad của Iraq 60 dặm về phía Nam và kéo dài đến vịnh Ba Tư. Đó chính là vị trí của Babylon 24 thế kỷ trở về trước.

Sau hơn một thế kỷ làm việc miệt mài nghiên cứu các di vật, đến nay, các nhà khảo cổ quốc tế hầu như đã giải mã toàn bộ những bí mật về Babylon. Những bằng chứng khách quan thu thập được từ những khám phá dầy công của ngành khảo cổ đã soi sáng cho nhân loại thấy rõ thực chất giả tạo bịp bợm của các đạo Độc Thần nói chung và của Ki Tô Giáo nói riêng. Người ta thường hiểu sai: văn minh Tây Phương là văn minh Ki Tô giáo (Christian civilization). Nhưng ngày nay, những kiến thức về lịch sử khách quan cũng như các kiến thức khoa học đang đẩy lùi Ki Tô Giáo ra khỏi biên giới các nước phương Tây, chẳng khác nào ánh sáng xua đuổi bóng tối. Dưới con mắt của giới trí thức Tây Phương, Công Giáo La Mã được coi là dòng chính của Ki Tô Giáo (Roman Catholic Church is the main line of Christianity) hiện đang mau chóng biến thành một thứ rác rưởi ghê tởm trong đời sống của người Âu Mỹ.

Đây là một sự thực đang diễn ra trước mắt mọi người, nhưng điều đáng buồn là đa số "trí thức" Công Giáo Việt Nam tại hải ngoại không khác gì những con đà điểu chỉ biết chúi đầu xuống cát để không phải nhìn thấy sự thật phũ phàng. Nhưng dù cố tình chạy trốn họ cũng không thể tránh khỏi phải đối dịên với sự thật. Thảm trạng suy thoái của Công Giáo Bắc Mỹ hiện đang ở trong tình trạng báo động đỏ, đến nỗi linh nục tiến sĩ Andrew Greenley và nữ tu tiến sĩ Mary Durkin đã hợp tác với nhau viết sách "Làm Thế Nào Để Cứu Giáo Hội Công Giáo ?" (How To Save The Catholic Church), 258 trang, Viking Penguin Inc. Canada 1984) . Tiến sĩ thần học nổi tiếng trong giới Công Giáo Mỹ David Tracy đuợc hai tác giả mời viết bài Tựa cho cuốn sách này đã phải than rằng : "Đời sống Công Giáo dường như đang bốc hơi với tốc độ chóng mặt". (Catholic life seemed to evaporate with dizzying rapidity).

Trong chương đầu sách, hai tác giả tu hành của giáo hội Công Giáo Hoa Kỳ đã viết với giọng văn đau khổ: "Chỉ một thời gian ngắn sau khi khai mạc Công Đồng Vatican II trong năm 1962, Giáo hoàng Gioan XXIII nói với một du khách rằng ngài chỉ có ý hé mở cánh cửa sổ cho có chút gió mát thổi vào giáo hội. Tại nước Mỹ, chút gió mát của giáo hoàng đã biến thành một trận cuồng phong. Chỉ một sớm một chiều, cả thập niên 1960 là thời đại đảo điên trong đời sống Hoa kỳ" (Shortly after the beginning of the Second Vatican Council in 1962, Pope John XXIII told a visitor that he intended to open the window and fresh air to blow through the Roman Catholic Church. In the US, the papal breeze turned into a TORNADO. Then, almost overnight, the 1960s were a turbulent time in American life - pages 3 – 4).

"Cửa sổ một khi đã mở không đóng lại được nữa. Thông điệp của GH Paul VI về việc kiểm soát sinh đẻ (Humanae Vitae) đã đập nát sự hồ hởi trong giáo hội sau Công Đồng Vatican II. Ngày nay, chín phần mười Công Giáo Mỹ không chấp nhận cái thông điệp đó" (The window once opened could not be closed. Pope Paul VI ‘s encyclical on birth control shattered the euphoria that had flourished after Vatican II. Today nine out of ten American Catholics do not accept it - Page 6). "Giáo Hội Công Giáo Mỹ đã trở thành Giáo hội Công Giáo tự trị" (American Catholic Church became a Do-It-Yourself Catholicism. page 8). "Trong thập niên 1960, một nửa tổng số Công Giáo Mỹ là đám dân di dân vừa nghèo vừa thường xuyên thất học" (By 1960s, half the American Catholics were poor and frequently uneducated immigrants. page 11) . Riêng trong năm 1984 có một triệu rưỡi phụ nữ Mỹ bỏ đạo. Các tác giả dự đoán số linh mục Mỹ sẽ giảm quá nửa vào năm 2000 và sẽ vĩnh viễn không được bổ khuyết (p. 11- 15).

Trình độ trí thức của người Mỹ da trắng càng lên cao bao nhiêu thì Giáo hội Công Giáo Mỹ càng suy tàn bấy nhiêu. Điều đó thật dễ hiểu vì họ đã nhận thức được bản chất của Công Giáo La Mã chỉ là một thứ cặn bã của nền văn hóa du mục máu lửa xuất phát từ Babylon. Sách Khải Huyền của Saint John, tức sách cuối cùng của bộ Thánh Kinh Tân Ước Ki Tô giáo, đã gọi Babylon là một giáo hội suy tàn (a fallen church) và ví nó như một mụ đàn bà lăng loàn, một con điếm thối (a defiled woman, a harlot). Sách Thánh kinh Khải Huyền đã in bằng những dòng chữ hoa lớn (in big capital letters) câu sau đây : "MYSTERY BABYLON THE GREAT, THE MOTHER OF HARLOTS AND ABOMINATIONS OF THE EARTH" (Revelation 17 : 1- 6). Xin tạm dịch : "Giáo hội huyền thoại Babylon vĩ đại là mẹ của các con điếm thối và của mọi chuyện khủng khiếp trên trái đất".

Cái cặn bã văn hóa gốc Ả rập - Do thái là Công Giáo La Mã đang dần dần được chuyển từ khối dân Mỹ da trắng sang các bãi rác tinh thần là những cộng đồng di dân Công Giáo gốc Mễ, Philippines và Việt nam. Hiện nay tại nhiều nhà thờ Công Giáo Mỹ người ta thấy rất ít giáo dân da trắng đi xem lễ ở nhà thờ của họ mà chỉ thấy toàn giáo dân gốc Việt và Mễ như ruồi lấp kín hết mọi hang hố xó xỉnh nhà thờ Mỹ!. Hang đá "Đức Mẹ Sầu Bi" ở Port Land thuộc tiểu bang Oregon đã bị Công Giáo Mỹ bỏ phế từ lâu. Vậy mà sau 1975, giáo dân Công Giáo Việt Nam tỵ nạn đã biến cái hang đá khỉ ho này thành một Trung Tâm Hành Hương náo nhiệt gần như hang đá Lộ Đức (Lourdes) ở Pháp. Hàng năm, Công Giáo Việt Nam hải ngoại tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu qui tụ tới mấy chục ngàn người hành hương đổ về hang đá "Đức Mẹ Sầu Bi" ở Port Land. Báo chí Mỹ gọi là "Annual Trip to Grotto" là điều người Mỹ văn minh trước đây đã không làm nổi.

Những kẻ lãnh đạo chóp bu của Giáo hội Công Giáo đã nhận thức được thực tế phũ phàng là họ đã hết thời làm ăn ở khu vực các nước Âu Mỹ văn minh đã được hấp thụ một nền giáo dục khai sáng trí tuệ. Cho nên Đức Thánh Cha John Paul II mới hạ cố ban hành Tông Thư "Ecclesia In Asia" (Đại Hội tại Á Châu) hoạch định một chuơng trình truyền giáo lớn lao tại Á Châu trong thế kỷ mới. Các Hội Đồng Giám Mục Á Châu đựơc chỉ thị họp mặt tại Samphran Thái Lan từ ngày 3 đến 13 tháng 1 năm 2000 để học tập về Tông Huấn của Sếp Lớn. Những điểm quan trọng trong kế hoạch của Sếp Lớn là giáo hội phải vuốt ve người nghèo và giới trẻ. Đặc biệt là phải dịu dàng vuốt ve phụ nữ chứ không được thô bạo chà đạp quyền lợi của họ theo truyền thống như xưa. Giáo hội phải hòa nhập vào khung cảnh sống của dân tộc bản xứ (như rắn lục hòa mình vào màu xanh cây cỏ trên đồng ruộng Việt Nam - chú thích của Ch. Ng.) và quan trọng nhất là phải cư xử như Giáo Hội đã trở thành bạn đường đồng cảm với người dân Á Châu. (Xin đọc các bài từ trang 23 đến 29 báo Dấn Thân bộ III số 35 tháng 3 & 4 - 2000 của Cơ Quan Nghiên Cứu Học Tập Thông Tin thuộc Phong Trào Giáo Dân Houston. P.O. Box 66449 Houston, TX 77266- 6449).

Dù môi trường hoạt động và phương cách truyền giáo có nhiều thay đổi trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, Vatican vẫn giữ nguyên bản chất cố hữu của nó là một Con Bạch Tuộc của Chủ Nghĩa Đế Quốc Tinh Thần (Spiritual Imperialism). Giới trí thức Tây phương mỉa mai gọi nó là Con Bạch Tuộc Của Đức Chúa Trời (Octopus Dei). Biệt danh này mang nhiều ý nghĩa : Đầu não của con bạch tuộc Công Giáo quốc tế vẫn là Vatican, mỗi một tổ chức giáo hội ở mỗi quốc gia là một cái vòi của nó. Mỗi một Hội đồng Giám mục của các giáo hội địa phương là một bộ tham mưu của đạo quân thứ năm nằm vùng thường trực trong lòng các quốc gia sở tại và luôn luôn ở trong tình trạng ứng chiến đợi lệnh từ trung ương Vatican. Theo thông lệ, cứ năm năm một lần, các giám mục trên toàn thế giới phải luân phiên nhau về chầu Tòa Thánh để báo cáo mọi chuyện, kể cả các bí mật quốc gia. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam là ban tham mưu Đạo Quân Thứ Năm của địch đang nằm vùng ứng chiến trong lòng dân tộc Việt Nam.

Tác phẩm The Next Pope 186 trang, Harper-Collins Publishers xuất bản, là một trong những cuốn sách chính trị bán chạy nhất trong năm 1995 tại Mỹ (One of the year ‘s political blockbusters). Tác giả Peter Hebblethwait là ký giả chuyên nghiệp về tòa thánh La Mã cho biết: "Thế giới ngày nay vẫn để tâm theo dõi xem ai sẽ là Giáo hoàng kế vị Jean Paul II. Không có một cuộc bầu cử nào được thế giới quan tâm cho bằng cuộc bầu cử Giáo hoàng ở Vatican!.Bởi lẽ đằng sau những bức tường Vatican, lịch sử nhân loại đang được hình thành" (behind those walls, history is being made).

Nhận xét về Công Giáo Việt Nam và Cuba, tác giả viết: "Có sáu hồng y trong các nước cộng sản hoặc cựu cộng sản sẽ lái Hội Đồng Hồng Y về phe hữu. Paul Joseph Phạm Đình Tụng, tổng giáo phận Hà Nội và Jaime Luca Ortega Y Alamino, tổng giáo phận Havana, Cuba, có triển vọng sẽ lãnh đạo giải thể chế độ của họ" (There are six from Communist or ex-Communist countries who will swing the college to the right. Paul Joseph Phạm đình Tụng, archbishop of Hanoi and Jaime Luca Ortega y Alamino, archbishop of Havana Cuba, will be expected to preside over the disintegration of their regimes. Page 178 ). Công Giáo Việt Nam luôn luôn hành động tuân theo răm rắp mọi chỉ thị của Vatican. Cho nên dù cho Việt Nam ở dưới chế độ Cộng sản hay không Cộng sản là điều thực sự Công Giáo không quan tâm. Vấn đề chính yếu là mọi chính quyền ở Việt Nam có cùng phe và phục vụ quyền lợi của Vatican hay không mà thôi. Trong bất cứ một hoàn cảnh lịch sử nào, bản chất của giáo hội Công Giáo Việt Nam luôn luôn là một quốc gia riêng biệt nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Bề ngoài người Công Giáo là người Việt Nam, nhưng xin đồng bào chớ nhìn vào ngoại hình của họ mà lầm to. Linh hồn Công Giáo Việt Nam đã được bán đứt cho quỷ sứ đế quốc La Mã từ lâu rồi. Các sách kinh Công Giáo đã biến mỗi một người Công Giáo Việt Nam sùng đạo thành một tên Việt gian chân chính [*]. (Đó là lời Chúa).

Tuy nhiên, cái hình ảnh của con bạch tuộc cũng bao hàm một ý nghĩa khác rất có lợi ích cho dân tộc Việt Nam: Một khi cái đầu não Vatican của con bạch tuộc bị người ta đập chết thì tất cả các cái vòi của nó trên khắp thế giới sẽ bị mất đầu và dù không bị đập cũng tự nhiên phải chết theo đồng loạt. Lúc đó, vấn đề cáo chung của các tổ chức Giáo hội Công Giáo địa phương không cần phải đặt ra. Điều đó không có nghĩa là hiểm họa Công Giáo đã chấm dứt. Vấn đề là phải giải quyết cái di sản của nó còn để lại ở phía sau. Đó là cái tập thể tín đồ mê muội mà xã hội có trách vụ phải giáo dục để giải cứu họ thoát khỏi nanh vuốt của cái Giáo hội đã lừa bịp họ bấy lâu.

Sự giáo dục nhằm mục đích giúp họ từ bỏ cái mặc cảm là một đàn súc vật dưới sự cai quản của ngoại nhân (một đàn chiên cùng một chủ chăn) để họ nhận thức được nhân phẩm cao quí của mình ngõ hầu tự khôi phục bản thân thành những người đứng thẳng (Homo-Erectus) theo đúng nghĩa của nó. Sự giáo dục vẫn phải được tiếp tục cho đến khi nào họ từ bỏ được cái thói tật bệnh hoạn thích ăn thịt đồng loại (sick cannibalism) - mặc dù chỉ là tưởng tượng nhưng thực chất vẫn là một đám mọi ăn thịt người - để họ có thể hội nhập trở lại vào xã hội của những người có tâm hồn và tinh thần bình thường (normal) như tuyệt đại đa số đồng bào chúng ta.

Nữ học giả Công Giáo Mỹ Joanne H. Meehl, tác giả cuốn "The Recovering Catholic - Personal Journeys of Women Who Left The Church" , 300 trang, Prometheus Books New York xuất bản năm 1995, đã viết trong bài tựa như sau : "Là một người viết sách có nghĩa là tôi đã phải đọc nhiều sách. Sự tò mò của tôi về niềm tin Công Giáo đã dẫn tôi đến những kệ sách thư viện và các cơ quan cung cấp dữ kiện. Tôi đã không để mình phải cô đơn, nên tôi đã đăng những lời rao của tôi trên nhiều sách báo khác nhau, từ những tạp chí phát hành cả nước cho đến những tờ báo địa phương, để khảo sát về phụ nữ thuộc mọi lứa tuổi. Tất cả những người trả lời tôi đều là những người bày tỏ sự tức giận của họ đối với giáo hội Công Giáo". (Being a writer means that I am a reader. My curiosity about the Catholic faith sent me to the library shelves and data services. I couldn’t be alone, so I placed advertisements in various publications, national magazines and local papers, to survey women of all ages who were angry to the Catholic chuch to respond). Tác giả đã dành một chương dài từ trang 116 đến 132 duới nhan đề "Refusing To Be A Cow" kêu gọi phụ nữ Công Giáo Mỹ bỏ đạo. Theo bà, tín đồ Công Giáo là những con bò và bỏ đạo Công Giáo có nghĩa là từ bỏ kiếp sống của loài bò !

Vatican là chúa sơn lâm già nua lão luyện trong đời sống rừng rú tinh thần, nhưng nó không phải là con thú dữ duy nhất trong cõi sơn lâm trên đời này. Bên cạnh chúa sơn lâm Vatican còn có nhiều loại chó rừng ác độc hoặc linh cẩu nham hiểm (hyenas) cũng đang ráo riết cạnh tranh nghề nghiệp với nó trên mọi lục địa. Sau khi nước Nga mở cửa tự do năm 1991, lập tức có ngay 232 tấn sách Kinh Thánh Tin Lành bằng Nga ngữ đã rời cảng Texas xâm nhập quốc gia cựu Cộng sản này.

Trong thập niên 1980, riêng giáo phái Baptist cũng có 3000 nhân viên truyền giáo hoạt động trong 94 quốc gia. Tổ chức International Youth For A Mission hiện có 2500 nhân viên truyền giáo dài hạn và 10.000 nhân viên truyền giáo ngắn hạn (long-term/short-term missionaries). Tổ chức Tin Lành "The Giant Campus Crusade" thành lập năm 1960 với trên một trăm nhân viên, hiện nay họ tuyên bố đã có nhiều ngàn nhân viên đang hoạt động trong trên 130 quốc gia. Thậm chí quốc hội Do Thái (The Israel Knesset) năm 1978 đã phải ban hành đạo luật ngăn cấm các phái đoàn truyền giáo (Anti-missionary Laws) . Kẻ nào truyền giáo tại Do Thái sẽ bị phạt $3.200 và 5 năm tù. Tại Nam Dương, các sở ngọai vụ chỉ cấp phép di trú cho các người truyền giáo trong thời hạn tối đa là 6 tháng.

Tổ chức giảng đạo Tin Lành bằng truyền thanh và truyền hình đại qui mô trên bình diện toàn cầu CBN, do Pat Roberson cầm đầu, đưa ra khẩu hiệu : "Programs to Change the World". Tổ chức này chú trọng đến Nhật và Trung quốc. Họ đã lập 700 câu lạc bộ Tin Lành tại Nhật và Pat Roberson gọi Trung quốc là "thị trường mênh mông của hàng hóa và các nhà truyền giáo Hoa kỳ" (Vast market for American products and preachers) . Tất cả mọi thủ đoạn và âm mưu của chủ nghĩa đế quốc Tin Lành đã được vạch trần qua tác phẩm Đại Hạ Giá Món Hàng Cứu Chuộc (Salvation For Sale - by Gerard Thomas Straub, an insider’s view of Pat Roberson’s ministry - Prometheus Book 1986).

Tại Việt Nam, Tin Lành khó có thể cạnh tranh nổi với Công Giáo La Mã, ngoại trừ ở khu vực những dân tộc thiểu số miền Cao Nguyên Trung Phần. Nhưng dù Công Giáo hay Tin Lành thì cũng cùng một thứ văn hóa máu lửa Ki Tô Giáo mà thôi, tất cả đều đem lại cùng một hậu quả là làm phân tán đại khối dân tộc, phá nát truyền thống văn hóa nhân bản cao đẹp của nòi giống Lạc Việt và làm suy yếu tiềm lực quốc gia trong mọi nỗ lực dựng nước và giữ nước. Đứng trên lập trường thuần túy dân tộc, mọi người Việt Nam yêu nước, dù đang ở trong nước hay ở hải ngoại, không phân biệt xu hướng quốc gia hay cộng sản, tất cả đều cần phải cảnh giác trước thứ vũ khí văn hóa hiểm độc đội lốt tôn giáo của chủ nghĩa đế quốc tinh thần.

Dân tộc Việt Nam đã đánh thắng nhiều loại thực dân đế quốc xâm lược lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần. Nhưng đó chỉ là những chiến thắng chống lại các loại vũ khí gươm giáo súng đạn vật chất của địch. Lịch sử Việt Nam không thiếu gì những bài học đắng cay về sự thất trận khi địch dùng thứ vũ khí văn hóa hiểm độc đội lốt tôn giáo của đức Bác Ái để tạo lập những đoàn quân thứ năm hùng hậu làm nội ứng cho chúng. Đạo quân thứ năm hung hãn cuồng tín này là thành phần xung kích chủ lực làm phân tán tiềm năng dân tộc và là con bài chính yếu thực hiện thủ đoạn "chia để trị" của địch.

Bài học thấm thía nhất có lẽ là vụ quân Pháp chiếm 6 tỉnh Bắc kỳ cuối thế kỷ 19. Bối cảnh lịch sử thời đó là nước Pháp rất suy yếu do mới thất trận ở Mexico và bị quân Đức của Bismarck chiếm đóng. Trong điều kiện tồi tệ như vậy tại chính quốc, thế mà đoàn quân xâm lược của Pháp tại Việt Nam chỉ vỏn vẹn có một tàu chiến cũ với 17 tên lính thủy cũng chiếm được 6 tỉnh Bắc Việt một cách dễ dàng. Đó là vì bên cạnh cái đám quân ít ỏi của thực dân Pháp còn có một lực lượng Việt gian hùng hậu gồm mấy trăm ngàn người Công Giáo tự nguyện làm nội ứng cho địch. Bọn chúng đã bán rẻ lương tâm giết hại đồng bào, phản bội tổ quốc. khiến cho kẻ thù của tổ quốc Việt Nam bất chiến tự nhiên thành!

Tác hại nguy hiểm nhất của tà đạo Công Giáo La Mã là nó đã phá hư hoàn toàn cái não bộ của tập thể tín đồ, khiến cho mọi nhận thức của cổ chiên về các giá trị đạo đức đều bị đảo lộn đến mức làm mọi người phải ngạc nhiên. Đó là những nhận thức của họ về thiện và ác, thật và giả, văn minh và mọi rợ, yêu nước và bán nước v. v. . .

Trước hết, người Công Giáo đã ngộ nhận giáo hội của họ là thánh thiện, vì vậy họ đã gọi nó là Hội Thánh, trong khi chính nó là tên vô địch sát nhân trong lịch sử loài người. Cái đạo bất nhân man rợ như vậy chỉ có thể được gọi là "Đạo Thánh Đức Chúa Trời" bởi những kẻ tối dạ thất học mà thôi. Cái núi tội ác cao ngất trời xanh đó đã hùng hồn xác minh cái bản chất của Công Giáo La Mã là Phi Nhân Tính (Inhumanity). Ngày nay, xã hội Tây Phương đã nhìn nhận rằng Phi Nhân Tính đồng nghĩa với Mọi Rợ (Inhumanity means Barbarism). Triết gia Thomas Bailey Aldrich đã ví nền văn minh Ki Tô giáo là cái áo lông cừu che đậy sự mọi rợ của nó ( Civilization is the lamb’s skin in which barbarism masquerades - Ponkapog Papers 1903). Vậy người Công Giáo vin vào đâu mà dám nói cái đạo vô địch sát nhân là đạo thánh? Vin vào đâu mà dám nhục mạ các dân tộc Đông phương là mọi rợ ? Phải chăng Công Giáo là đạo duy nhất thích ăn thịt uống máu người (qua lễ ăn Bánh Thánh) nên được coi là đạo duy nhất thánh thiện và duy nhất văn minh ?

Suốt 50 năm (từ 904 đến 964), Giáo hội Công Giáo đã từng bị cai trị bởi hàng lô gái điếm trong vai trò làm vợ bé của các giáo hoàng. Lịch sử Âu Châu gọi thời kỳ này là "thời thống trị của những con điếm" (The rule of harlots). Năm 928, giáo hoàng Gioan X đã bị vợ là Theodora giết chết để đưa nhân tình của y thị lên thay lấy hiệu là Leo VI. Đúng một năm sau, giáo hoàng Leo VI bị vợ của cố giáo hoàng Sergius III là mụ điếm Marozia giết chết để đưa con ruột của thị lên kế vị lấy hiệu là Gioan XI. Năm 955, cháu nội của Marozia mới 18 tuổi lên ngôi giáo hoàng với tên hiệu là Gioan XII. Tên giáo hoàng này hoang dâm vô độ, y thường làm tình với gái điếm ngay ở tòa thánh Vatican.

Giáo hoàng Innocent III (1198- 1216) là một tên sát nhân vượt trên tất cả các bạo chúa thời trung cổ ở Âu Châu. Y chính là kẻ đã phát minh ra Tòa Án Dị Giáo (Inquisition) chuyên việc dựng lên những dàn hỏa thiêu sống cả chục triệu người bất đồng ý kiến với Vatican trong suốt năm thế kỷ.

Gần trọn thế kỷ 14, giáo đô Công Giáo bị dời về Avignon Pháp Quốc, tất cả các giáo hoàng đều bị phế lập hoàn toàn do ý thích của các vua Pháp chứ chẳng do một đoàn hồng y nào bầu lên cả ! Giáo hoàng nổi tiếng dâm loạn nhất trong thời kỳ này là Gioan XXIII (1410- 1415) hiếp dâm ba trăm nữ tu và có một cung viện (harem) chứa hai trăm cô gái. Y được giáo dân tặng cho biệt danh là "Quỷ Sa tăng nhập thể" (The Devil Incarnate). Sau 15 năm cai trị hội thánh, y bị truất phế và bị bôi tên ra khỏi danh sách các đấng đại diện Chúa Giêxu. Vì vậy, năm 1958 hồng y Angelo Giuseppe Roncalli được bầu làm giáo hoàng đã xử dụng lại danh hiệu Gioan XXIII như để gở gạc phần nào cái ô danh của giáo hoàng trước.

Tội lỗi xấu xa của các giáo hoàng La Mã kể ra không xiết, vậy mà người Công Giáo Việt Nam vẫn cứ nhắm mắt tôn xưng bọn giáo hoàng hung ác dâm loạn này là các Đức Thánh Cha, là các Đấng Đại Dịên của Chúa Giê-Xu tại trần thế và là các Đấng Thánh hằng được ơn Đức Chúa Thánh Thần soi sáng nên không thể sai lầm ! Những niềm tin quái gở như vậy chỉ có thể có nơi những người mất trí. Những người dân quê thất học tin vào những điều ngớ ngẩn ấy thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng trong thực tế ta thấy nhan nhản những kẻ mệnh danh là "trí thức Công Giáo" với bằng cấp và danh vị khoa bảng đầy mình mà cũng tin xằng bậy như vậy. Cho nên Tây Phương có câu: "Kẻ ngu có học ngu hơn kẻ ngu thất học".

Kẻ ngu thất học là đại đa số giáo dân Công Giáo. Nói lên điều này xin đừng vội kết án tôi cũng là người Công Gáo lại cố ý xử dụng từ ngữ hàm hồ bất xứng để nhục mạ cả một tập thể lớn trong cộng đồng dân tộc. Thực sự tôi chỉ là người chuyển ngữ ý kiến của những giới chức có thẩm quyền trong giáo hội Công Giáo Hoa Kỳ nhận xét về giáo hội của họ mà thôi. Chẳng hạn như nữ học giả Joanne H. Meehl, trong cuốn sách nổi tiếng The Recovering Catholic (Người Công Giáo Tỉnh Ngộ) , đã viết : "Đạo Công Giáo chỉ thịnh hành và phát triển ở nơi những kẻ nghèo và ngu dốt " ( Catholicism only thrives and grows among the poor and ignorant). Hai vị tiến sĩ đương kim tu hành tại chức Andrew Greenly và Mary Durkin nhận xét về thực trạng giáo hội Công Giáo Mỹ trong thập niên 1960, lúc đó chưa có những cộng đồng di dân Việt Nam tại Hoa Kỳ, rằng : "Nửa số giáo dân Công Giáo Mỹ là những di dân nghèo và thường xuyên thất học" ( Half the American Catholics are poor and frequently uneducated - How to save the Catholic Church . p.11) .

Muốn cứu những người Công Giáo ra khỏi bóng tối tinh thần chỉ có một giải pháp nhân đạo nhất và hữu hiệu nhất là giáo dục họ. Nói cách khác là đem đến cho họ một ít vốn liếng của sự hiểu biết (understanding). Đất nước sở dĩ vẫn còn bị nhiễu loạn vì còn có nhiều người dân thiếu hiểu biết. Muốn thực hiện cuộc sống an bình trong xã hội điều cần thiết trước hết phải là nâng cao dân trí. Như Einstein đã nói: "Hòa bình chỉ có thể thực hiện bằng sự hiểu biết" (Peace can only be by understanding). Đây là một chân lý.

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy không thể dùng bạo lực đàn áp, nhất là đối với tôn giáo, để duy trì hòa bình thật sự. Hòa bình thật sự chỉ có thể có được khi tuyệt đại đa số quần chúng hiểu rõ sự thật. Công Giáo La Mã thực sự không phải là một tôn giáo mà là một sản phẩm tội ác của những tên đại trí thức bất lương trong tổ chức Siêu Đại Bịp quốc tế. Chỉ có sự hiểu biết tận tường về bản chất dối trá vô cùng nham hiểm của Công Giáo La Mã mới có thể giải thoát những đồng bào bất hạnh chẳng may bị vướng vào cái thòng lọng của nó mà thôi. Nếu mọi nguời đều cố gắng tìm hiểu lịch sử và thực chất của Đạo Công Giáo thì tà đạo nguy hiểm này nhất định sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn trên Quê Hương Tổ Quốc chúng ta. Chỉ trong điều kiện này, dân tộc Việt nam mới có thể ngẩng mặt tiến lên cùng nhân loại trong Thiên Niên Kỷ Thứ Ba*.

Đó là những lời tâm huyết của tôi xin được kính gửi đến cùng toàn thể đồng bào trong cũng như ngoài nước và đó cũng là nội dung chính yếu của tất cả những bài tôi viết về Công Giáo La Mã trước đây cũng như hiện nay và sau nầy.

Kính mời quý vị đọc các phần kế tiếp của cuốn sách nầy với những bằng chứng cụ thể, để hiểu rõ thêm cái tôn giáo phi nhân bản: Công Giáo La Mã và các giáo phái Tin Lành nói chung.

Trân trọng kính chào toàn thể quí vị.

Houston, ngày 21 tháng Tư năm 2001

Dominic Nguyễn Chấn

(Charlie Nguyễn)